logo

Phân tích bài thơ Sông lấp của Trần Tế Xương

Bài thơ “Sông lấp” ấy được coi là một điển hình cho cái thời của Trần Tế Xương. Cái đáng quý mà ai cũng thấy được là tình cảm chân thành mà ông dành cho quê hương đất nước. Để hiểu rõ hơn về bài thơ hãy cùng Toploigiai đến với bài Phân tích bài thơ Sông lấp của Trần Tế Xương dưới đây!

Phân tích bài thơ Sông lấp của Trần Tế Xương

Trong nền văn học Trung đại Việt Nam, Trần Tế Xương được biết đến là một cây bút trào phúng đầy sắc xảo, đả phá sâu cay những hiện thực xã hội đen tối, khốc liệt. Bên cạnh đó, ông cũng mang trong mình một tâm hồn chan chứa tình cảm khi viết về quê hương, đất nước. Xúc cảm trước nỗi đau đất nước bị rơi vào tay kẻ thù, hồn thơ trữ tình trong ông trỗi dậy, một nỗi băn khoăn, trăn trở, sót xa. Tất cả những tâm sự sâu lắng ấy được dồn nén qua bài thơ “Sông lấp”.

“Sông kia rày đã nên đồng, 

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai. 

Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.”

Dòng sông luôn gắn liền với hình ảnh của quê hương, và nằm lặng một góc trong trái tim của người yêu quê. Khi thấy sống Vị Hoàng, dòng sông thân thương của mảnh đất Nam Định bị lấp, Tế Xương đã không khỏi suy tư. Chỉ vẻn vẹn bốn câu lục bát, ta đã nghe được trọn cả một tiếng lòng.

“Sông kia rày đã nên đồng

“Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai”.

Ngay câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã diễn tả khung cảnh trực tiếp bằng cái nhìn thị giác. Với những từ ngữ bình dị nhất, ông đã gợi ra sự thay đổi của con sông sau những cuộc bể dâu. Dòng sông ngày nào giờ đã trở thành “Đồng”, mạch máu của người dân đã bị thực dân Pháp lấp lại để lấy đất trồng cây, làm nhà. Từ “rày” vang lên nặng nề như nỗi lòng Tế Xương, khiến cả câu thơ trầm lằng trong nỗi uất hận, nghẹn ngào. Lớp phù sa không chỉ lấp đi con sông Vị Hoàng, mà đã lấp đi cả quá khứ, cả tuổi thơ của Tế Xương. Phải chăng sự thay đổi đó đã gieo vào lòng nhà thơ một nỗi đau quá lớn, khắc khoải đến mức bộc bạch thành thơ?

Sang đến câu thơ thứ hai, nhịp thơ có vẻ day dứt, nuối tiếc, dằn xé hơn, khi ông sử dụng điệp từ “chỗ” ở đầu hai vế của câu thơ. Qua đó, hiện thực của con sông không chỉ hiện lên rõ ràng hơn, mà nhà thơ còn ngầm nói đến sự thay đổi của cả đất nước. Dưới sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam nửa Tây nửa ta với bao nhiêu những cái lố lăng, xấu xa, quái gở. Những sự thay đổi nhanh chóng và hỗn loạn ấy khiến một tâm hồn yêu nước không khỏi bất bình. Tế Xương cũng từng mê đắm nét thi vị của dòng sông Vị Hoàng, nhưng dòng sông đó nay không còn nữa, dòng nước trong mát không còn hiền hòa uống lượn, soi bóng hai hàng cây. Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tả thực và trữ tình, nhà thơ đã kêu gào một nỗi xót xa trước hiện thực đầy tiếc nuối. Đồng thời nêu lên thực trạng xã hội thối nát lúc bấy giờ. Có lần, Tế Xương đã phải căm phẫn mà thốt lên:

“Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông

Nha kia lỗi phép con khinh bố

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”

Phân tích bài thơ Sông lấp của Trần Tế Xương

Con sông Vị Hoàng không còn nữa, và còn nhiều dòng sông khác bị bàn tay đẫm máu của bọn thực dân tàn phá, chẳng khác nào đánh mất đi linh hồn đất nước vào tay kẻ thù. Sở dĩ ông u uất như vậy, là vì sự thay đổi trước mắt không phải để đổi lấy đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân, càng không làm cho đất nước phát triển, mà đỏ chỉ là sự ích kỷ, thị oai, ác độc, xấu xa của bọn thực dân. Trong lòng nhà thơ không chỉ là sự tiếc nuối, xót thương mà còn cuộn trào nỗi căm hận đối với kẻ thù. Dòng sông thân thương chỉ còn lại trong dĩ vãng, trong hoài niệm của nhà thơ, vậy nên hai câu thơ cuối, ông viết:

“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”.

Trước mắt là nhà cửa, ngô khoai, nhưng dường như trong lòng Tế Xương không muốn chấp nhận con sông đã biến thành “đồng”. Hai câu thơ với trường liên tưởng mạnh mẽ, mở ra trong mắt người đọc một khung cảnh đồng quê buổi đêm vắng vẻ, hiu quạnh, tịch mịch đến mức nghe rõ tiếng ếch kêu, lại tạo cho người đọc một cảm giác buồn man mác, khiến chúng ta từng chút một đồng cảm với nhà thơ. Lời thơ bình dị nhưng cảm xúc, không vội vã ồn ào mà tĩnh lặng, suy tư, gom hết bao nhiêu nỗi trăn trở của nhà thơ. Từ “vẳng” khiến người đọc liên tưởng đến một không gian rộng nhưng mơ hồ, âm thanh chẳng biết từ nơi đâu vọng lại, phải chăng chỉ là tiếng cảnh vật va vào nhau. Đứng trước “dòng sông” hôm nay, nhưng Tế Xương lại luôn không khỏi hoài niệm về những ngày thanh bình thuở trước, tiếng ếch quen thuộc của một tuổi thơ chăn trâu cắt cỏ ven sông, khiến ông không khỏi nao lòng khi nhớ lại. Câu thơ như là tiếng lòng, là nỗi hoài niệm của nhà thơ, giống như Bà Huyện Thanh Quan từng viết: 

“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.

Và tâm trạng tiếc thương dòng sông cũ lại càng được bộc bạch rõ hơn khi nhà thơ nghe nhầm “tiếng ếch” kêu thành “tiếng ai gọi đò”. Nhà thơ không chỉ tiếc quá khứ bị lớp đất kia chôn vùi, mà còn tiếc cho cả một thuở thanh bình của đất nước. Ông không chấp nhận thực tại thối nát ấy, nên vọng tượng về xa xưa. Nhưng lại chằng có cách nào chối bỏ thực tại đang bày ra trước mắt, nên ông “giật mình” thoát khỏi cơn mộng, mà vẫn còn vương vấn dòng suy nghĩ của ký ức. Chữ “tưởng” lơ lửng giữa câu thơ lại càng nói lên tâm trạng tiếc thương đầy xót xa. Cảm động thay một tiếng lòng yêu nước, yêu quê hương luôn được giữ vẹn tròn dù trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu. 

Câu thơ cũng chính là sự tuyệt vọng của Tế Xương khi biết rằng những thứ trong quá khứ sẽ không bao giờ quay trở lại được. “Tiếng gọi đò” thân thương cũng chỉ còn là những hồi tưởng trong ký ức, trong giấc mơ lúc ẩn lúc hiện, lúc rõ lúc không, lúc xa lúc gần. Mà nhà thơ sẽ không còn cơ hội để nghe âm thành ấy thêm một lần nào nữa. “Tiếng ếch kêu”, “tiếng gọi đò” vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí tác giả, có lẽ rõ ràng đến mức thuộc từng giai điệu âm thanh. Sự nuối tiếc quá khứ ấy càng lớn, tác giả càng đau khi phải trở về với thực tại, với sự thay đổi quá lớn. Trên hết đó là nỗi đau nước mất nhà tan. 

Đứng trước cảnh mất nước, mấy ai mà không chua xót. Tế Xương cũng không ngoại lệ. Hiện thực ấy đã khiến một giọng thơ trào phúng, từng bật lên những tiếng cười khinh ghét, cay độc nay phải ngậm ngùi cay đắng, một tâm sự vừa day dứt vừa thâm sâu, thấm vào từng câu chữ. Sự nhầm lẫn ở câu thơ cuối đã cho nhà thơ sống lại một thời ký ức tươi đẹp, trữ tình ngày trước. Dù chỉ vài giây, nhưng có lẽ với ông, bấy nhiêu thôi cũng đủ mãn nguyện rồi. Tiếng gọi đò ấy còn là tiếng vọng lại của một thời đã qua, là sự hoài niệm luôn âm ỷ trong lòng tác giả. Hình ảnh về quê hương, về con sông Vị Hoàng ngày trước, sao có thể phai mờ trong tâm trí người con đã từng yêu quê bằng những câu thơ đẹp nhất như Tế Xương.

Bốn câu thơ vẽ nên một bức tranh vừa tả thực lại đậm chất trữ tình. Người đọc có thể chỉ thấy được cảnh vật hiện hữu bên trên, nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi niềm tiếc thương, đau xót khi thấy cảnh đẹp quê hương bị tàn phá đến mất đi nét thơ mộng ban đầu. Đó là một nỗi niềm luyến tiếc sâu lắng, thiết tha. Cũng yêu nước, yêu quê hương và Tế Xương đã thể hiện nó qua những âm thanh, hình ảnh vô cùng bình dị, quen thuộc, nhưng lại dùng chính những thứ đó để bộc bạch nỗi nhớ và tình yêu cháy bỏng, khôn nguôi. 

Nói đến Tế Xương, ông đúng là một nhà thơ đa tài. Giọng điệu thơ của ông vừa có thể trào phúng vừa có thể sâu lắng. Thơ của Tế Xương, đặc biệt là bài thơ “Sông lấp” ấy được coi là một điển hình cho cái thời của ông. Cái đáng quý mà ai cũng thấy được là tình cảm chân thành mà ông dành cho quê hương đất nước. Trong ký ức và hoài niệm của Tế Xương, dòng sông Vị Hoàng sẽ mãi chảy, bao bọc lấy mảnh đất Nam Định cho đến tận mai sau.

icon-date
Xuất bản : 06/12/2023 - Cập nhật : 06/12/2023