logo

Phân tích Chợ đồng của Nguyễn Khuyến

Bài thơ Chợ Đồng thể hiện tâm trạng thất vọng, chán chường của Nguyễn Khuyến khi chứng kiến nhịp sống của người dân nơi chợ Đồng. Phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Năm cũ sắp qua, năm mới đang dần đến mà cái cái nghèo, cái túng đói vẫn ám ảnh đời sống dân quê. Hãy cùng Toploigiai Phân tích Chợ đồng của Nguyễn Khuyến


Dàn ý phân tích

a. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm 

- Nêu vấn đề nghị luận

b. Thân bài:

* Hoàn cảnh sáng tác

* Hai câu đầu:

- “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng”: thời gian, không gian của bài thơ

- “Năm nay chợ họp có đông không?": “năm nay” hình ảnh trìu tượng, không cụ thể về mốc thời gian ==> Dân chúng tiêu điều, khổ sở, nghèo đói.

* Hai câu thực: 

- "Dở trời mưa bụi còn hơi rét” ==> Rét ở thể xác, lẫn cả trái tim con người.

- “Uống rượu tường đền được mấy ông?" ==> Tìm về với những ông bạn già, năm ngoái năm kia còn cùng thử rượu, nhưng buồn làm sao khi chẳng "được mấy ông" 

* Hai câu luận: 

- "Hàng quán người về nghe xáo xác” ==> "xáo xác" lộn xộn tiếng chủ nợ đòi con nợ, tiếng con nợ khất tiền, lời qua tiếng lại như thế càng làm tăng thêm cái vẻ khổ sở, nghèo túng của người dân.

- “Nợ nần năm hết hỏi lung tung” 

* Hai câu kết:

- "Dăm ba ngày nữa tin xuân tới” ==> Tết đã gần đến với Chợ đồng, tác giả mong muốn người dân ở đây sẽ sống một cuộc sống khấm khá hơn.

- “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng." ==> Tiếng pháo nhà ai bỗng nổ "đùng", đánh thức người trong buồn bã, xót xa, xua đi cái nghèo đói, xua đi cái lạnh lẽo của mưa bụi rét mướt.

* Tổng kết nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa

c. Kết bài 

- Kết luận

- Liên hệ

Phân tích Chợ đồng của Nguyễn Khuyến

Phân tích Chợ đồng của Nguyễn Khuyến

Xuân Diệu từng nhận xét "Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam". Thật vậy, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, bên cạnh những tác phẩm trữ tình, trào phúng xuất sắc, Nguyễn Khuyến có một số lượng lớn tác phẩm viết về làng quê. Sau khi cáo quan về quê, nhà thơ đã gắn bó cuộc đời mình với thôn quê nên ông có sự gắn bó, thấu hiểu với mảnh đất quê nhà, bởi vậy mà mỗi cảnh vật thôn quê hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến đều thực sinh động, gần gũi và gợi cảm xúc. 

Nguyễn Khuyến sau khi rời chốn quan trường nhiễu nhương, lui về ở ẩn ở quê nhà, đó là làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng Vị Hạ có chợ họp ở trong làng, gọi là chợ Và. Hàng năm cứ đến phiên chợ cuối tháng Chạp (chợ sắm Tết) nhân dân lại dời chợ ra họp ở một cánh ruộng mạ phía sau làng, nên gọi là chợ Đồng. Từ năm 1949, quân Pháp về đóng đồn ở làng Vị Hạ thì chợ Và cũng thôi không họp nữa, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. cụ Nguyễn Khuyến đã viết nên tác phẩm này nhờ cảm hứng ngôi chợ Và ở làng Vị Hạ quê ông. 

Hai câu đầu của bài thơ là lời tác giả đang hỏi một người làng đi chợ phiên về, cũng là đang tự hỏi chính bản thân mình:

"Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

 Năm nay chợ họp có đông không?"

Khi đọc xong hai câu thơ trên chắc chắn người đọc sẽ thắc mắc vì sao ông hỏi thế? "Năm nay" lại là năm nào, có ý nghĩa gì chăng? Nhưng nhìn vào cái ngữ điệu, giọng thơ hơi chùng, lại chậm rãi, ta nghe như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm thì có lẽ năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui cho được. Liệu có phải vào năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng tiêu điều, khổ sở, người ta còn chẳng buồn đoái hoài đến chợ Tết? Tựu chung lại hai câu thơ chất chứa rất nhiều nỗi buồn, đó là nỗi xót xa cho cuộc sống cơ cực, khổ sở của một nhà trí thức có đến hơn nửa đời người gắn bó với từng niềm vui nỗi buồn của người dân nơi làng quê khốn khổ, lầm than. 

Tiếp đến là hai câu thơ thực, Nguyến Khuyến lại tiếp tục đặt một câu hỏi ngỏ, thể hiện cái tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, vắng lặng của những ngày giáp Tết mà không khí thật đìu hiu, buồn bã.

"Dở trời mưa bụi còn hơi rét, 

Uống rượu tường đền được mấy ông?"

Xuân đương đến, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương, những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt nhưng ai đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết nó cũng chẳng tầm thường, cũng làm ướt áo người như ai. Thứ mưa bụi hơi đương còn vấn chút gió đông nên "hơi rét", rét cả ngoài da, rét đến trong lòng người. Ngẫm lại nhìn cơn mưa bụi thế có ai còn thấy được sắc đỏ của pháo Tết, người người muốn núp trong nhà, đường được mấy ai, vắng vẻ lắm cho một cái Tết nơi làng nghèo. Thế rồi vẫn có một cụ già, đang tuổi thất thập cổ lai hi, chống cái gậy con lọ mọ ra đường, tìm lại những giá trị văn hóa thật đẹp. Tìm về với những ông bạn già, năm ngoái năm kia còn cùng thử rượu, nhưng buồn làm sao khi chẳng "được mấy ông". Một nhà nho chân chính, vì bất đắc chí mà lui về ở ẩn, cốt lánh sự đời, tìm về niềm vui dân dã, bầu bạn với người cùng trang lứa, nhưng nay còn lại ai, có lẽ đã đi xa hết cả rồi. Lòng thi sĩ thấy thật cô đơn, lẻ loi, một người già cả lại chịu nhiều nỗi đau cả chung cả riêng như thế, quả thật xót xa quá 

"Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung."

 Thế rồi nhà thơ già bỗng nghe được những âm thanh mới, những tưởng đấy là âm thanh hân hoan, vui mừng khi Tết đến. Nhưng không, âm thanh ấy nghe "xáo xác" lộn xộn lắm, đó là tiếng chủ nợ đòi con nợ, tiếng con nợ khất tiền, lời qua tiếng lại như thế càng làm tăng thêm cái vẻ khổ sở, nghèo túng của người dân nơi chợ Đồng. Ai cũng có nỗi khổ cho riêng mình, kẻ không đòi được tiền thì cay cú, bực dọc, người mắc nợ thì xấu hổ, xót xa. Cứ vậy, ta thấy Tết ở đây chẳng còn là lúc để vui mừng mà là lúc để người ta càng nhận rõ ra cái nghèo khó, cùng cực của những người nông dân xưa, phải chạy vạy từng ngày lo miếng ăn, chứ nói gì đến Tết nhất. 

"Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng." 

Thế rồi khi phiên chợ đã vắng hẳn, nhà thơ từ trong nỗi buồn mênh mang, nhẩm tính chỉ còn mấy hôm nữa thì xuân lại tới rồi. Ông quẩn quanh trong một nỗi lo lắng cho cuộc sống cơ cực của nhân dân, khi năm hết tết đến, càng mong cho nhân dân được đón một cái Tết mới được đầm ấm hạnh phúc, chứ chẳng phải cảnh tiêu điều, xáo xác kia. Tiếng pháo nhà ai bỗng nổ "đùng", đánh thức người trong buồn bã, xót xa, xua đi cái nghèo đói, xua đi cái lạnh lẽo của mưa bụi rét mướt. Nhưng pháo nhà ai, thì không biết nữa, rồi liệu pháo ấy có thật kỳ diệu vậy không, Nguyễn Khuyến không xác định được. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc trong không gian những ngày cuối năm lại càng làm tăng thêm cái nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong lòng người thi sĩ 

Bài thơ thể hiện tâm trạng buồn của Nguyễn Khuyến khi chứng kiến nhịp sống của người dân qua cảnh chơ Đồng. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Năm cũ sắp qua, năm mới đang dần đến mà cái cái nghèo, cái túng đói vẫn ám ảnh đời sống dân quê. Nỗi buồn khiến nhà thơ chìm vào suy tư, vậy nên âm thanh của “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng” như khiến nhà thơ giật mình trở về với thực tại 

Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết đọng qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền" của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’ ... Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.

icon-date
Xuất bản : 06/01/2024 - Cập nhật : 06/01/2024