logo

Sự day dứt về thân phận như bị bỏ rơi, bị quên lãng của chủ thể trữ tình gợi cho em cảm xúc gì?

Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ xuất sắc của nhà thơ Hàn Mặc Tử, bài thơ nổi tiếng không đơn thuần chỉ vì sự độc đáo mà còn là sự hòa quyện của những yếu tố nghệ thuật. Sau đây, mời các em cùng Toploigiai tìm hiểu bài viết về sự day dứt về thân phận như bị bỏ rơi, bị quên lãng của chủ thể trữ tình gợi cho em cảm xúc gì? Hãy viết một đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc đó trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.


Đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc nói trên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1

day dứt về thân phận như bị bỏ rơi, bị quên lãng của chủ thể trữ tình gợi cho em cảm xúc gì? Hãy viết một đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc đó trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

 

Quả thật không sai khi nhận định rằng Hàn Mặc Tử là một “nhà thơ điên”, ông bộc lộ những tâm tư, cảm xúc của mình trong từng con chữ. Thông qua khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba, người đọc đã cảm nhận rõ ràng nhất về những chuyển biến trong cảm xúc của tác giả, đó là sự day dứt về thân phận như bị bỏ rơi, bị quên lãng của chủ thể trữ tình. Câu thơ bộc lộ rõ nhất điều ấy chính là “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?/ Có chở trăng về kịp tối nay?”, sự cô đơn, bâng khuâng và lo lắng đã bao trùm lên toàn bộ cảnh vật. Tác giả Hàn Mặc Tử đã suy nghĩ rằng liệu không biết có chiếc thuyền nào kịp chở trăng về, chính chữ “kịp” đã khắc họa rõ nhất nỗi cảm xúc bồi hồi, tiếc nuối, lo lắng khi thời gian chỉ còn rất ít và cứ thế trôi nhanh. Ta cảm nhận được rằng nếu như ánh trăng ấy không về kịp thì chủ thể trữ tình sẽ hoàn toàn tuyệt vọng và đau buồn biết bao nhiêu.


Đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc nói trên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 2

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay và xuất sắc nhất của thi sĩ Hàn Mặc Tử, ông viết bài thơ này cho bà Hoàng Cúc khi bản thân mình đang mắc căn bệnh nan y rất nặng. Nếu như trong khổ thơ đầu tiên, người đọc cảm nhận một khung cảnh khu vườn nên thơ và trữ tình thì đến với khổ thứ hai, một lần nữa người đọc chứng kiến khung cảnh sông nước kết hợp với đêm trăng huyền ảo. Khổ thơ thứ ba lại cho người đọc một cảm nhận hoàn toàn khác, đó là sự chơi vơi, tiếc nuối của chính bản thân nhân vật trữ tình. Khung cảnh đẹp đẽ giờ đây đã phải nhường bước cho một mảng màu đầy sự buồn thương, ảm đạm, bao trùm lên toàn bộ không gian. Tất cả hình ảnh đều trở nên nhạt nhòa và mờ ảo, hình ảnh khách đường xa, áo trắng,…Tác giả Hàn Mặc Tử cũng mang trong mình căn bệnh nặng, ông dường như đang mong ước có ai đó đến và ghé thăm mình, thế nhưng dường như tất cả chỉ là ảo ảnh mà ông tạo ra. Có thể thấy trong những câu thơ chính là nỗi day dứt, những suy nghĩ, trăn trở về sự bỏ rơi, cô đơn và lạnh lẽo của chính tác giả. Ông khao khát được sống trọn vẹn, được yêu thương và chăm sóc, được tiếp tục sống và cảm nhận những vẻ đẹp của đất trời. Đây xứng đáng là bài thơ hay nhất vì nó đã lồng ghép rất nhiều yếu tố cảm xúc của tác giả, khiến người đọc nhớ mãi không quên.


Đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc nói trên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3

Bị cuộc đời tuyệt giao, nhưng Hàn Mặc Tử không bao giờ chịu tuyệt tình. Càng chia lìa, càng bị cuộc đời bỏ rơi, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người thương thôn Vĩ: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Thật xót xa trong giấc mơ, người thương đã thành khách đường xa. Lời gọi “khách đường xa, khách đường xa” chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách. Nỗi cách chở chia li như nhân lên trùn trùng qua nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3. Ta tưởng như trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người lính vừa chợt hiện lên đã mờ dần, khuất xa, mất hút. Người tình xưa như đang chạy trốn ta vậy. Câu thơ tự sự mà mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng. Cùn với vườn ngọc, trăng huyền ảo, hính bóng trinh nguyên của người khách đường xa đã hợp thành thế giới ngoài kia, lộng lẫy, quyến rũ. Nhưng cũng giống như những hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông, sông nước xứ Huế đêm trăng đi liền với niềm đắm say tột bậc là nỗi đau thương đến xót xa. Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng. Mơ tưởng về người thôn Vĩ, thi sĩ không sao thoát khỏi nỗi đau thương, hình ảnh người tình xa càng lộng lẫy thì khoảng cách càng đẩy xa vời vợi. Cuối cùng, thi sĩ đành ngậm ngùi mà trở về với thực tại: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”.


Đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc nói trên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 4

Khi mọi nỗ lực hướng ra thế giới "ngoài kia" - thế giới của biêng biếc sắc màu, tràn ngập sự sống, của ấm nóng tình người, đều trở nên vô vọng, Hàn Mặc Tử buộc phải quay lại với thế giới trong này của mình, quay lại với lãnh cung cuộc đời, cô đơn, bế tắc, buồn tẻ. Cái thế giới ấy hiện lên bằng câu thơ "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh", hình tượng thơ vô cùng siêu thực tượng trưng. Đó là một thế giới mang sự lạnh lẽo, mịt mờ của khói sương, thiếu vắng hình bóng, hơi ấm của con người, là nỗi đau đớn nhất của Hàn Mặc Tử khi phải chống chọi một mình với bệnh tật, không người sẻ chia, bị cách ly khỏi xã hội và đợi chờ thần chết đến tìm mình trong tuyệt vọng. Bản thân thi sĩ không thể bước ra thế giới ngoài kia và thế giới ngoài kia cũng chẳng thể tìm đến với lãnh cung của người thi sĩ. Chỉ có duy nhất một sợi dây vô hình liên hệ giữa hai thế giới khác biệt ấy là tình cảm tha thiết, sâu nặng của người thi sĩ với cuộc đời, với thiên nhiên ngoài kia vẫn luôn đầy ắp trong tâm tưởng, trong những vần thơ lúc trong trẻo, thanh khiết lúc rớm máu đau thương. Tuy nhiên Hàn Mặc Tử ôm chữ "tình" như lá bùa hộ mệnh ấy lại có những lúc hoài nghi "ai biết tình ai có đậm đà", người sợ chỉ có mình đơn phương, ôm những tình cảm sâu đậm, còn chẳng hay người ngoài kia có đối với mình như thế hay không, hoặc là nỗi băn khoăn không biết rằng liệu giai nhân, liệu Kim Cúc có thấu hiểu cho cái nỗi lòng tha thiết đến khốn khổ của mình dành cho nàng hay không. Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, thì cũng thể hiện rõ một điều rằng Hàn Mặc Tử ý thức vô cùng sâu sắc về sự mong manh của sợi dây giao nối tình cảm giữa hai thế giới này, người sợ một ngày nào đó nó sẽ đứt mất, và người vĩnh viễn phải giam mình trong cái lãnh cung vô sắc, vô vị và lạnh lẽo này.


Đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc nói trên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 5

day dứt về thân phận như bị bỏ rơi, bị quên lãng của chủ thể trữ tình gợi cho em cảm xúc gì? Hãy viết một đoạn văn (Khoảng 8 - 10 dòng) trình bày cảm xúc đó trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấu số bị số phận oan nghiệt đày vào lãnh cung. Ấy là lãnh cung của sự chia lìa (tôi không nhằm nói đến Gò Bồi hay Qui Hoà, bởi đó chỉ là hai địa chỉ hạn hẹp trong cái lãnh - cung - định - mệnh ấy thôi). Cơ hội về lại cuộc đời cơ hồ không còn nữa. Vô cùng yêu đời, thiết tha bao luyến mọi người, vậy mà Tử đã chủ động cách li, quyết định tuyệt giao với tất cả. Nhưng tuyệt giao chứ không phải tuyệt tình. Thậm chí, càng tuyệt giao, tình nhớ thương càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hằng ngày ở trong cái lãnh cung ấy, Tử thèm khát thế giới ngoài kia: Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa? / Trời ở trong đây chẳng có mùa / Không có niềm trăng và ý nhạc / Có nàng cung nữ nhớ thương vua. Chủ động tuyệt giao chỉ là biểu hiện lộn ngược của lòng thiết tha gắn bó. Hễ tiễn một ai đến thăm mình về lại Ngoài kia thì chẳng khác nào tiễn người từ chốn lưu đày vĩnh viễn về lại cuộc đời, thậm chí như tiễn người từ cõi này về cõi khác. Một nửa hồn mình coi như đã chết theo: Họ đã đi rồi khôn níu lại / Lòng thương chưa đã mến chưa bưa / Người đi một nửa hồn tôi mất / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Từ bấy trong thơ Tử hình thành hai không gian với sự phân định nghiệt ngã: Ngoài kia và Trong này. Nó là sự cách nhau của hai cõi, mà khoảng cách bằng cả một tầm tuyệt vọng - Anh đứng cách xa nghìn thế giới / Lặng nhìn trong mộng miệng em cười / Em cười anh cũng cười theo nữa / Để nhắn lòng anh đã tới nơi. Đọc thơ Hàn, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay ở đây) là hai thế giới hoàn toàn tương phản. Ngoài kia: mùa xuân, thắm tươi, đầy niềm trăng, đầy ý nhạc, tràn trề ánh sáng, là cuộc đời, trần gian, là sự sống, hi vọng, hạnh phúc... Trong này: chẳng có mùa, không ánh sáng, không trăng, không nhạc, âm u, mờ mờ nhân ảnh, là lãnh cung, là trời sâu, là địa ngục, bất hạnh... Trong này chỉ về lại được Ngoài kiabằng ước ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt vọng mà thôi. Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về Ngoài kia trong hồn Tử. Thôn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia. Nói khác đi, Ngoài kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên bằng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm về thăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát về với Ngoài kia, về với cuộc đời, với hạnh phúc trần gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hoá. Trong văn bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan không gian như thế ở hai nơi chốn: “thôn Vĩ” (Ngoài kia) và “ở đây” (Trong này). Hình tượng cái Tôi thi sĩ hiện ra như một người đang “ở đây”, ở Trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng về “thôn Vĩ”, về Ngoài kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang phải lìa bỏ cuộc đời, đang bị số phận bỏ rơi bên trời quên lãng, đang chới với trong cô đơn, đang níu đời, nuối đời. Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao? Chẳng phải lời tỏ tình ấy càng vô vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao?

icon-date
Xuất bản : 22/02/2024 - Cập nhật : 22/02/2024