logo

Phân tích 2 câu cuối bài Nhàn

Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích 2 câu cuối bài Nhàn. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! 


Phân tích 2 câu cuối bài nhàn – Mẫu số 1

Văn học trung đại là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng những tài năng văn chương có đóng góp lớn lao đến muôn đời. Tên tuổi của các nhà thơ đã để lại trong ta bao ấn tượng. Và trong đó không thể không nói tới Trạng Trình NGuyễn BỈnh Khiêm với bài thơ Nhàn. Nhàn là triết lí sống của thi nhân giữa cuộc đời với đầy rẫy những xô bồ. Đặc biệt, qua bốn câu thơ cuối của bài, ta thấy rõ hơn cả triết lí, lối sống và vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.

Bài thơ cho ta thấy quan niệm sống của nhà thơ. Trong cuộc sống thôn quê bình dị, thi nhân không thấy khổ sở, vất vả mà vui thú tận hưởng nó. Dù ngoài kia người người vui vẻ nơi chốn đông người, vui vẻ với vật chất đủ đầy thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn giản đơn chọn cho mình lối sống giản đơn. Ông bỏ mặc mọi vinh hoa phú quý kia và chọn lối sống  an yên, tự tại. Dù có bị cho là dại nhưng tâm hồn người thi sĩ vẫn thấy đó mới là cuộc sống hưởng thụ, cuộc sống vui thú. Hình ảnh liệt kê, những từ láy, nhịp thơ giàu cảm xúc diễn tả được thi vị cuộc đời "lánh đục" trong nhà thơ.

Hai câu thơ kết dường là sự khẳng định và đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Cuộc đời ông làm quan, đỗ đạt và được hưởng công danh, tiền tài chẳng thể làm ông mờ tối. Với ông,  phú quý “tựa chiêm bao”. Những vật chất ấy là một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan biến  và con người chỉ có trong say mê, trong ảo não thì mới có thể đắm mình. Còn khi tỉnh táo, thì giấc mơ phú quý sẽ tan biến. Điển tích điển cố được sử dụng trong lời thơ mang theo bao tâm tình. Lời thơ là lời khẳng định triết lí sống đẹp của con người giữa những xô bồ của thời cuộc. 

Bài thơ Nhàn đã thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật liệt kê, những hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị, lời thơ hàm súc. Đặc biệt, ta đã bắt gặp tiếng lòng của nhà thơ với bao xúc cảm. Dấu ấn sâu sắc mà Nhàn trong bốn câu cuối nói riêng, trong toàn bài thơ nói chung làm chúng ta hiểu hơn cuộc sống của con người thanh cao, của bậc cư sĩ đại tài dẫu đồi sống ngổn ngang, xô bồ. 


Phân tích 2 câu cuối bài nhàn –  Mẫu số 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ “Nhàn “được rút trong tập thơ “Bạch Vân am thi tập”. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui , an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

Hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

Phân tích 2 câu cuối bài Nhàn hay nhất

Phân tích 2 câu cuối bài nhàn – Mẫu 3

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một người có học vấn uyên bác, từng đỗ Trạng Nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà Mạc. Nhưng do sống và phụng sự trong một thời kỳ lịch sử đầy sóng gió và đảo điên của chế độ phong kiến Việt Nam Trịnh - Nguyễn phân tranh nên Ông đã cáo quan về quê ở ẩn và tận hưởng cuộc sống thanh nhàn cho đến cuối đời. Tập thơ Bạch vân quốc ngữ thi tập mà trong đó có bài thơ Nhàn của tác giả cũng ra đời vào hoàn cảnh đó. Bài thơ Nhàn là một tác phẩm nổi tiếng thể hiện quan niệm sống thanh tao của một bậc đại Nho xem thường danh lợi, phú quý, xem chúng là một giấc mộng xa hoa, phù phiếm , không xứng đáng để một con người trong sáng theo đuổi.

Nhãn quan nhạy bén và cái nhìn sáng suốt của nhà thơ đã được thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông đã tỉnh táo hơn bao giờ hết:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Đến đây tác giả sử dụng điển tích giấc mộng đêm hòe:Coi phú quý tựa như một giấc chiêm bao để khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống “nhàn” của mình. Hai câu thơ đã thể hiện một nhân cách sống, một trí tuệ khác thường bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa như một giấc mộng chiêm bao, không bao giờ với tới được. Động từ “nhìn xem” đã thể hiện sự thức tỉnh một cách đúng lúc của thi nhân trong tư thế làm chủ hiên ngang của cuộc đời mình.

Hai câu thơ kết đã truyền đạt thật trọn vẹn ý nghĩa của quan niệm sống Nhàn đó là: biết từ bỏ những thứ xa xỉ như vinh hoa , lợi danh bởi vì đó chỉ như một giấc chiêm bao mà thôi. Ông khuyên con người đừng nên học theo thói xấu đó, và nên nhớ rằng chỉ có vẻ đẹp về nhân cách, tâm hồn trong sạch mới là vẻ đẹp đáng trân trọng và lưu giữ mãi về sau. Qua đó cũng toát lên vẻ đẹp nhân cách đạo đức của một bậc Nho sĩ đại tài Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ông đã cởi mũ quan để về chốn thanh tịnh sống phần đời của chính mình, để giữ lại một nhân cách đáng trân quý. Quan điểm coi khinh danh lợi, xem đó là phù phiếm, hão huyền.

Ngoài ra, cùng Top lời giải tìm hiểu chi tiết hơn về bài thơ Nhàn nhé

I. Tác giả

1. Tiểu sử - Cuộc đời

- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng.

- Năm 1535, ông đỗ Trạng nguyên và làm quan dưới triều Mạc.

- Khi làm quan, ông dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng vua không nghe.

- Sau đó, ông cáo quan về quê, lập quán Trung Tân, dựng am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch Vân Cư Sĩ.

- Ông dạy học, học trò có nhiều người nổi tiếng nên ông được đời suy tôn là Tuyết Giang Phu Tử (Người thầy sông Tuyết).

- Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm. Vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, Nguyễn có việc hệ trọng đều hỏi ý kiến ông và ông đều có cách mách bảo kín đáo, nhằm hạn chế chiến tranh, chết chóc.

- Mặc dù về ở ẩn, ông vẫn tham vấn cho triều Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyết hầu, Trình Quốc công nên có tên gọi là Trạng Trình.

2. Sự nghiệp văn học

- Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc

- Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài).

- Nội dung thơ: thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết lý, giáo huấn, ngợi ca của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội.

II. Tác phẩm

Nhàn

Một mai, một quốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống.

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

1. Xuất xứ

Nhàn là bài thơ Nôm số 73, trong Bạch Vân quốc ngữu thi. Nhan đề bài thơ do người đời sau đặt

2. Bố cục (4 phần)

- Phần 1 (hai câu đề): Hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm

- Phần 2 (hai câu thực): Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Phần 3 (hai câu luận): Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở chốn quê nhà.

- Phần 4 (hai câu kết): Triết lí sống nhàn

3. Giá trị nội dung: Khẳng định quan niệm sống Nhàn hoà hợp với tự nhiên và giữ được cốt cách thanh cao, thoát khỏi vòng danh lợi.

4. Giá trị nghệ thuật

- Nhịp thơ chậm, thong thả.

- Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh.

III. Đọc – hiểu tác phẩm 

1. Cuộc sống nhàn

a. Hai câu đề

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thần dầu ai vui thú nào.

- Điệp từ:một.

- Liệt kê danh từ: mai, cuốc, cần câu.

- Lặp cấu trúc: Số từ + danh từ.

- Nhịp: 2/2/3.

→ Gợi nhịp điệu đều đặn, thong thả của cuộc sống.

⇒ Lối sống bình dị, thuần hậu, vui thú với điền viên.

- Từ láythơ thẩn: gợi trạng thái thanh thản, an nhàn, vô sự trong lòng.

- Đối: Thơ thẩn >< vui thú.

- dầu ai: mặc ai

→ Khẳng định lối sống đã lựa chọn – sự kiên định, không chút dao động, băn khoăn khi lựa chọn cách sống cho riêng mình.

⇒ Một cung cách sống đời thường, giản dị, ung dung, thảnh thơi, không gợn chút suy tính, lo toan về danh về lợi

b. Hai câu thực

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao

- Hình ảnh hoán dụ biểu tượng:

+ Nơi vắng vẻ: Nơi thiên nhiên tĩnh tại, xa lánh cuộc đời bon chen đố kị, tâm hồn thanh thản.

+ Chốn lao xao: Chốn cửa quyển “ra luồn vào cúi”, đua chen danh lợi, nhiều ràng buộc.

- Nghệ thuật đối: Ta – tìm nơi vắng vẻ (Tự do) >< Người – đến chốn lao xao (Ràng buộc)

- Phác hoạ hình ảnh về lối sống của hai kiểu người dại – khôn thông qua Cách nói ngược, hóm hỉnh, thâm trầm. → Triết lí về dại – khôn của cuộc đời cũng là cách hành xử của tầng lớp nho sĩ thời bấy giờ.

→ Khẳng định phương châm sống xa lánh nơi quyền quý, tìm nơi sống thoải mái, nhàn tản, gìn giữ nhân cách.

⇒ Trong cuộc sống hàng ngày, với Nguyễn Bỉnh Khiêm, lối sống Nhàn là hoà hợp với đời sống lao động bình dị, an nhiên vui vẻ tránh xa vòng danh lợi, bon chen chốn vinh hoa, phú quý.

2. Triết lí về cách sống nhàn và nhân cách của nhà thơ

a. Hai câu luận:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

- Hình ảnh thiên nhiên: bốn mùa tuần hoàn Xuân – Hạ – Thu – Đông.

- Món ăn dân dã: măng trúc, giá.

- Sinh hoạt: tắm hồ sen, tắm ao.

→ Phép đối + liệt kê tạo âm hưởng thư thái, tận hưởng.

⇒ Lối sống hoà hợp, thuận theo tự nhiên.

b. Hai câu kết

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

- Điển tích: Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống; phú quý tựa chiêm bao.

- Nhìn xem: biểu hiện thế đứng từ bên ngoài, coi thường danh lợi.

→ Khẳng định lối sống mà mình đã chủ động lựa chọn, đứng ngoài vòng cám dỗ của vinh hoa phú quý.

⇒ Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy an nhiên, vui vẻ bởi thi sĩ được hoà hợp với tự nhiên, nương theo tự nhiên để di dưỡng tinh thần, đồng thời giữ được cột cách thanh cao, không bị cuốn vào vòng danh lợi tầm thường.

---/---

Như vậy Top lời giải đã trình bày xong bài văn mẫu Phân tích 2 câu cuối bài Nhàn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!

icon-date
Xuất bản : 28/03/2022 - Cập nhật : 26/11/2022