logo

Nhận định về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Có người từng nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau: “Đọc qua văn thơ của ông, dù nghìn năm còn tưởng như trăng trong gió mát”. Để giúp các em hiểu thêm về giọng thơ ấy, Top lời giải đã tổng hợp và biên soạn Nhận định về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất. Mời các em tham khảo nhé!


Trả lời câu hỏi: Nhận định về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nhận định về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:

- Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.

- Thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là "trữ tình lý trí". Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự

Cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm các bạn nhé!


Kiến thức tham khảo về bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm


1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Nhàn

a) Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là một nhà thơ lớn của dân tộc thế kỉ XVI sống trong xã hội đầy bất công, luôn suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống con người và quyết cầm bút lên để chiến đấu với gian tà.

+ Bài thơ Nhàn là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ vẻ đẹp cuộc sống và vẻ đẹp nhân cách cũng như quan niệm sống của tác giả.

Nhận định về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

b) Thân bài

- Hai câu đề:

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai, vui thú nào”

+ Nhịp điệu những câu thơ đầu tạo cảm giác thư thái, ung dung

+ Bằng cách sử dụng những vật dụng quen thuộc của người dân lao động cho thấy cảnh nghèo khó nhưng an nhàn, thanh bình biết bao.

+ Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ “an bần lạc đạo” vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến thú vui của ẩn sĩ.

- Câu thực:

+ Cách sử dụng phép đối: dại >< khôn, nơi vắng vẻ >< chốn lao xao cho thấy được sự khác nhau giữa lối sống của tác giả và người đời thường. Ông cho rằng nơi vắng vẻ là nơi thôn quê yên bình ở đó không còn bon chen chốn quan trường, đây mới thực là cuộc sống.

+ Cách xưng hô “ta”, “người”

>>>> Hai về tương phản làm nổi bật ý nghĩa, nhân mạnh phương châm, quan niệm sống của tác giả khác với thông thường. Đồng muốn ngầm ý phê phán thói đời, thói người, và thể hiện cái cao ngạo của kẻ sĩ.

- Hai câu luận:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

+ Cuộc sống giản dị không cần những thứ giàu sang hào nhoáng chỉ là sản vật từ nhiên nhiên “măng trúc” “giá” -> Thấy được cuộc sống an nhàn, đạm bạc thanh cao, lối sống hòa nhập với thiên nhiên của tác giả.

+ Cái thú sống an nhàn ẩn dật, những con người có nhân cách cao đẹp khi sống trong thời loạn lạc ấy để giữ được phẩm giá cốt cách của mình chỉ có cách cáo quan về ẩn dật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống chan hòa với thiên nhiên với vũ trụ.

- Hai câu kết:

‘’Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao''

+ Xem nhẹ lẽ đời sống sa hoa phú quý, ông ngậm ngùi coi đó như một giấc chiêm bao.

+ Lối sống thanh cao vượt lên trên lẽ đời thường

c) Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung bài thơ Nhàn

- Nêu cảm nhận của em về bài thơ.


2. Một số bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ “nhàn”

Bài văn mẫu 1:

Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn quan trường triều Mạc về quê dạy học và sống nhàn tản, sống hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên danh lợi. Quan niệm sống nhàn của vị Trạng Trình ấy được thể hiện qua bài thơ " Nhàn" viết bằng chữ Nôm, rút trong tập "Bạch Vân quốc ngữ thi". " Nhàn" là quan niệm sống, là lời tâm sự về cuộc sống, sở thích cá nhân.

Sau khi dâng sớ vạch tội và xin chém đầu 18 lộng thần nhưng vua không chấp nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê dạy học, sống nhàn như một "lão nông tri điền thực sự". Cuộc sống thuần hậu, nhàn tản diễn ra hàng ngày với:

" Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào".

Nhịp điệu thơ thong thả như chính nhịp sống giữa thôn quê yên bình với "mai", "cuốc", "cần câu". Điệp từ "một" chỉ số đếm cụ thể lần lượt liệt kê ra các danh từ chỉ công cụ lao động bình dị kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo ra tâm thế sẵn sàng, chu đáo trong lao động. Từ láy "thơ thẩn" phác họa cho ta thấy tư thế an nhiên, tự tại và cuộc sống thuần hậu, chất phác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ phiếm chỉ "ai" nói về mọi người mải lo "vui thú nào" trái ngược với ông chỉ thích quanh đi quẩn lại với những thú vui thiên nhiên, cây cỏ không chút bận lòng với công danh, phú quý ở đời. Tâm trạng thanh thản, an nhàn và thú vui tao nhã, thanh cao với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông- mùa nào thức ấy.

" Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao".

Cuộc sống đạm bạc từng ngày trôi qua vô cùng thư thái với những món ăn quê mùa, dân dã "măng trúc", "giá" do sức lao động của mình làm ra, cùng với nếp sinh hoạt bình thường, giản dị "tắm hồ sen", " tắm ao". Nghệ thuật liệt kê ở hai câu thơ đã khắc họa bức tranh tứ bình về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao với bốn mùa có những đặc trưng riêng. Từ ngữ bình dị, dân dã như lời khẩu ngữ tự nhiên, hệt như cách nói của một lão nông thực sự chứ không phải là của một vị từng làm quan. Thú vui thanh nhàn nhưng không làm mất đi vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ sáng ngời.

" Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao".

Dại - khôn ở đời là cách nhìn của mỗi người, bởi nước luôn chảy xuống thấp còn con người luôn muốn hướng lên cao mà đi. Ở hai câu thơ này, ta thấy được hai cách sống trái ngược giữa "ta" và "người". So sánh tương phản và biện pháp đối: dại- khôn, vắng vẻ- lao xao đã chỉ ra sự đối lập giữa nhân cách - danh lợi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại cốt cách thanh cao, theo đuổi quan niệm sống nhàn, nhàn thân và nhàn tâm mặc người chốn quan trường bon chen, tranh giành. Đi ngược với thói đời thông thường, ông lánh đục tìm trong, tìm về "nơi vắng vẻ", nơi không người cầu cạnh và cũng không cần đi cầu cạnh người. Quê nhà thanh tịnh và an nhiên giúp ông tìm được sự thư thái, thảnh thơi của tâm hồn và giữ được sự thanh cao của nhân cách. Mặc người chọn "chốn lao xao" nơi quan trường bon chen, sát phạt, nơi xô bồ chỉ có quyền lực và bạc tiền, không có tình người. Cái "dại" của "ta" là cái "dại" của một bậc đại trí, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của thời cuộc, sống trọn vẹn từng ngày thanh thản, nhàn nhã theo tự nhiên. Cái "khôn" của "người" là chấp nhận dấn thân vào "chốn lao xao" để tìm lợi ích cho bản thân, u mê giữa thời thế nhưng người cứ bon chen, bị cuốn theo vòng danh lợi. "Người' nhìn cho "ta" là "dại" nhưng chắc gì "ta dại" và "người khôn"? Vị Trạng Trình của một thời làm quan dưới triều Mạc tự nhận mình là "dại" nhưng rất tỉnh táo trong lựa chọn cách sống. Cách nói đùa vui, ngược nghĩa làm giọng thơ trở nên hóm hỉnh, sâu cay nhưng chứa đựng một tầm nhìn sáng suốt, nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhận ra cái khôn-dại thực sự ở đời.

Sống thanh cao và chan hòa với tự nhiên là quan niệm sống nhàn xuyên suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống ngược lại với người đời, ông đứng bên ngoài nhìn thói đời bon chen, ngươi lừa, ta gạt để tranh giành phú quý. Bài thơ " Nhàn" làm nổi bật nhân cách, trí tuệ sáng ngời, một quan niệm sống phù hợp với hoàn cảnh xã hội có nhiều biểu hiện suy vong thời bấy giờ. Mỗi thời mỗi khác, nhưng quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hoàn cảnh ấy rất đáng quý, đáng được trân trọng, ngợi ca.

Bài văn mẫu 2:

Trong văn học trung đại, có nhiều bài thơ hay và ý nghĩa của các thi sĩ đương thời. Trong đó bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, tôn cao triết lí sống.

Bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tầm thường như trong câu “nhàn cư vi bất thiện” mà là thái động sống, một triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng. Bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc gói gọn trong chữ “nhàn” được phân chia bố cục chặt chẽ. Mở đầu bài thơ tác giả viết:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc: “mai”, “cuốc”, “cần câu” những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông chân chất vừa mang bóng dáng của một tao nhân mặc khách. Chỉ cần vậy thôi, ta đã cảm nhận được đây là một cuộc sống thư thái an nhàn của nhân vật trữ tình. Kết hợp với điệp ngữ “một” là từ láy “thơ thẩn” miêu tả được trạng thái của tác giả. Với dáng người ung dung, thoải mái, trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần. Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, mặc dù ai vui thú nào, ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê. Từ lời thách thức ấy toát lên sự ung dung trong phong thái, thanh thản trong tâm hồn, vui thu điền viên.

Đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ “nơi vắng vẻ” là chốn thôn quê thanh bình, an nhàn vô âu vô lo, ở đó tâm hồn con người hòa nhập với thiên nhiên, còn “chốn lao xao” là nơi quan trường với những đua tranh ghen ghét của danh lợi, ồn ào phiền não. Phải chăng tác giả “dại” nên tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường, nhưng thật chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khôn, “khôn” có nghĩa là dại. Lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn phải suy nghĩ đắn đo, và như thế liệu có sung sướng? Phép đối hai câu thơ thực mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, vào vòng danh lợi. còn tác giả, ông phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch. “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao, tránh xa vòng danh lợi.

Không những tác giả chọn cuộc sống thanh cao, tránh xa tham vọng, tác giả còn hết mình hòa nhập với thiên nhiên, Đến với hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn của nhân vật trữ tình:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Ai cũng biết măng, tre, trúc, giá là đồ ăn dân dã từ thiên nhiên rất dễ tìm thấy, gắn liền với cuộc sống của nhà nghèo nơi thôn dã đậm đà vị quê. Những thức ăn ấy trở nên quen thuộc mỗi ngày trong đời sống sinh hoạt, thu ăn măng trúc trên rừng, mùa đông về ăn giá. Đặc biệt câu thơ: “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” đã phác họa hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sinh hoạt dân dã. Khi trở về với thiên nhiên, với làng xóm, Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hòa mình với thôn quê thuần hậu. Cuộc sống thanh đạm, mang lại thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức nấy, đó là một cuộc sống được nhiều người ngưỡng mộ mà chẳng mấy ai có được. chính cảnh sinh hoạt đời thường ấy đã thể hiện sự đồng điệu nhịp bước của thiên nhiên và của con người. Hẳn phải sống hết mình, sống hòa hợp với thiên nhiên mới có sự đồng điều kì diệu như vậy.

Từ những thứ sinh hoạt đời thường ở những câu thơ trên thì đến với hai câu kết, tác giả đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Trong câu thơ, tác giả có sử dụng điển tích “cội cây” ý muốn nói rằng phú quý công danh là thứ phù phiếm ,chỉ là áng phù vân trôi nổi có rồi lại mất như một giấc mơ mà thôi. Đó là một thái độ rất đáng trọng bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trong thời đại mà chế độ phong kiến bắt đầu khủng hoảng, nền tảng đạo đức nho giáo bị phá vỡ, rạn nứt, đó là thời đại mà con người lấy tiền làm thước đo cho mọi giá trị khác. Vậy, “nhàn” ở đây là coi thường vinh hoa phú quý. Và ta hiểu rằng “nhàn” ở đây là một triết lí sống chứ không phải quan niệm nhân sinh, không phải là cứu cánh mà chỉ là một phương thức tư duy. Bản chất chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhân tâm mà là nhân thân. Nhân mà vẫn phải âu lo việc nước. Nhàn là tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn chứ không phải là lười nhác, suy cho cùng cũng là giữ gìn danh tiếng của mình, giữ tròn thanh giá của mình trong thời loạn, là lạc đạo vong bần giữ những phần tử gian xảo tranh đua danh lợi. Nhàn là không để dục vọng xấu xa làm mờ ám lương tâm, làm vẩn đục tâm hồn, không tham dự vào vòng danh lợi, còn lòng ái quốc sẽ không bao giờ nguội lạnh.

Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, phủ nhận danh lợi. Bài thơ mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ mai sau.

Bài văn mẫu 3:

Nguyễn Bỉnh Khiêm ( Sinh năm 1491- Mất năm 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là mọi người thường nghĩ ngay đến việc lúc ông làm quan, ông đã từng dân sớ vạch tội xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Ông là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi mất, ông để lại tập thơ viết bằng chữ Hán – Bạch Vân Am thi tập. Và bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ đó là bài thơ “Nhàn”. Bốn câu thơ cuối của bài thơ nói rõ nhất về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Hai câu thơ đầu đã khắc họa được như thế nào một cuộc sống nhàn rỗi :

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẫn dầu ai vui thú nào”

Ở câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh một ông lão nông dân sống thảnh thơi. Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp từ “Một” thêm vào là một số công cụ quen thuộc của nhà nông dân nhằm khơi gợi trước mắt người đọc một cuộc sống rất tao nhã và gần gũi nhưng không phải ai muốn là có. Từ “Thơ thẩn” trong câu hai khắc họa dáng vẻ của một người đang ngồi ung dung, chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo lão về quê ở ẩn. Và từ “vui thú nào” cũng một lần nữa nói lên cái nhàn rỗi, cái vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là cảnh nhàn dẫu có ai bon chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thế ung dung nhàn hạ, tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng vui thú, điền viên…

“…Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người khôn người đến chốn lao xao”

Hai câu thơ tiếp theo của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối lập nhau như “ta” – “người”; “dại” – “khôn”; “nơi vắng vẻ” – “chốn lao xao”  một loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của ông. Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ với chốn thôn quê cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm đến chốn “phồn hoa đô hội”. Hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập, hoàn toàn trái ngược nhau. Ông tự nhận mình là “dại” vì theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn. Vậy lối sống của ông có phải là lối sống xa dời và trốn tránh trách nhiệm? Điều đó tất nhiên là không, vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ cốt cách thanh tao của mình. Do ông có hoài bão muốn giúp vua làm cho trăm dân no ấm, hạnh phúc nhưng triều đình lúc đấy tranh giành quyền lực, nhân dân rất đói khổ, tất cả ước mơ hoài bão của ông không được xét tới. Vậy nên ông rời bỏ “Chốn lao xao” là điều đáng trân trọng. Ta có thể cảm nhận được ông đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên, tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành. Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì bài thơ đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.

Như vậy, qua bốn câu thơ đầu của bài thơ “Nhàn” ta đã hiểu rõ được quan niệm sống nhàn và nhân cách của ông, coi thường danh lợi, luôn giữ được tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh  Khiêm. Lối sống trong sạch của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bài thơ cho đến tận ngày hôm nay.

icon-date
Xuất bản : 27/03/2022 - Cập nhật : 26/11/2022