logo

Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí học sinh giỏi

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí học sinh giỏi. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp nâng cao, chi tiết từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh chuyên văn. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí - Mẫu 1

Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.

Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.

Phiên âm chữ Hán:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn;

Phong vận kì oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch thơ Tiếng Việt:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)

Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:

Độc điếu song tiền nhất chi thư.

(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?

Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới tạo ra được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.

Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư:

(Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.)

Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chỉ phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.

Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.

Đến hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.)

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.

Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái oăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.

Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng)

Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng ? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.

Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?

Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỷ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa.

Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.

Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào ! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí học sinh giỏi

Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí - Mẫu 2

Là một đại thi hào của dân tộc cũng là danh nhân văn hóa thế giới, Nguyễn Du đã để lại cho đời sau một gia tài văn học đồ sộ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Khi sáng tác thơ văn, người ta thấy Nguyễn Du luôn day dứt một nỗi niềm thương cảm dành cho những người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội đó là những nàng Dương Qúy Phi, nàng Thúy Kiều và còn có cả nàng Tiểu Thanh trong bài thơ Độc Tiểu Thanh ký.

Ai đã từng đọc bài thơ Độc Tiểu Thanh ký đề biết đây chính là bài thơ viết về nàng Tiểu Thanh – một người con gái tài sắc vẹn toàn sống vào thời Minh, Trung Quốc. Tuy nhiên, xoay quanh tiêu đề của bài thơ này vẫn còn nhiều tranh cãi. Người thì hiểu rằng: Nguyễn Du đọc tập thơ của nàng Tiểu Thanh nhưng cũng có người lại hiểu rằng Nguyễn Du đọc câu truyện viết về nàng Tiểu Thanh. Nhưng dù hiểu theo cách nào, nguồn cảm hứng để đại thi hào Nguyễn Du sáng tác nên bài thơ này cũng từ cuộc đời đầy bi ai của nàng. Tiểu Thanh vốn dĩ có tài sắc, được gả làm vợ lẽ một gia đình quyền quý khi mới chỉ 16 tuổi. Nhưng nàng lại phải sống cô quạnh trên Cô Sơn cạnh Tây Hồ do vợ cả hay ghen. Vì đau buồn cảnh sống tù túng, Tiểu Thanh sớm sinh bệnh và mất ở tuổi 18. Trong những tháng ngày ấy, Tiểu Thanh gửi nỗi lòng của mình vào những vần thơ nhưng cũng bị vợ cả đốt gần hết, may vẫn có những vần thơ được giữ lại đến ngày nay.

Nguyễn Du đứng trước bài thơ của nàng Tiểu Thanh mà nức nở:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

(Dịch: Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,

Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi”

Hai câu thơ mở đầu nghe buồn não ruột bởi Nguyễn Du thấy sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Tây Hồ khi còn nàng Tiểu Thanh xinh đẹp, trẻ trung là một vườn hoa rực rỡ nhưng đến hiện tại chỉ còn là bãi hoang điêu tàn. Từ “tẫn” được tác giả sử dụng thể hiện mọi thứ đã bị thay đổi hoàn toàn, không còn một dấu vết nào của năm xưa. Sự thay đổi của thời gian quả thực khắc nghiệt: vườn hoa biến thành gò hoang là chứng tích của thời gian, còn cuộc đời hẩm hiu, đau khổ của nàng Tiểu Thanh cũng chỉ còn lại qua chứng tích là những trang giấy thơ văn mà thôi. Nguyễn Du đứng trước quang cảnh của thực tại, khó tránh những tiếng thở dài não ruột và liên tưởng đến thân phận của những người có tài văn chương. Sự lẻ loi, đơn độc lên đến tột cùng khi chỉ trong 1 câu thơ có tới 2 từ gồm từ “độc” và từ “nhất” xuất hiện.

Tiếp đến hai câu thực, câu chuyện về nàng Tiểu Thanh vẫn là tiền đề khơi gợi cảm xúc, lòng trắc ẩn của đại thi hào:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

(Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Bất cứ ai nghe câu chuyện về Tiểu Thanh cũng khó tránh khỏi sự tiếc thương cho cuộc đời đầy bi ai. Trước khi cảm nhận cái chết đang gần kề, Tiểu Thanh có thêu họa sĩ vẽ chân dung của mình nhưng nàng chỉ chọn được 1 bức duy nhất theo đúng ý để treo lên. Tiểu Thanh cứ nhìn bức tranh mình xinh đẹp, kiều diễm với thần thái tự tại mà khóc đến chết. Cuối cùng, chính bức tranh đó cũng bị người vợ cả đốt cùng thơ văn của nàng. Bằng cách sử dụng hình ảnh gắn liền với hồng nhan “chi phấn”, tác giả đã khéo léo nói về cuộc đời tài hoa bạc mệnh của người con gái ấy. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn khơi gợi ra những bất công, ngang trái trong cuộc sống đời thực, chẳng phải riêng của nàng Tiểu Thanh. Người tài hoa bị cái ác dập vùi trong đau khổ đến mức nếu son phấn có thần chắc chắn có chết cũng vẫn hận, còn văn chương dù không có số mệnh nhưng bị đốt bỏ cũng mãi vương vấn. Cái tàn nhẫn của người đời đủ khiến những vật vô tri vô giác cũng phải oán thán trời xanh.

Khác với hai câu đề và hai câu thực có phần hướng ngoại, đến hai câu luận, Nguyễn Du đã ngẫm về đời và ngẫm về mình:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

(Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang)

Mặc dù bản dịch thơ khá chuẩn, nhưng từ “Mối hờn” không đảm bảo sức nặng như từ cổ kim hận trong nguyên tác. Mối hờn ở đây không phải thù hận mà là sự tiếc hận – sự tiếc hận cho những con người tài năng, những thế hệ tài năng nhưng lại gặp phải nhiều ngang trái trong cuộc đời. Cảm thương cho những con người như vậy, Nguyễn Du cũng tin rằng dường như có một thông lệ định sẵn cho những con người tài hoa sẽ bạc mệnh như nàng Tiểu Thanh, như nàng Thúy Kiều… Mối hận cổ kim là mối hận của người xưa và người nay, tức người thời Nguyễn Du, là chính Nguyễn Du. Người xưa có thể là Nguyễn Du và những người như nàng. Người nay có thể là những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh cùng thời Nguyễn Du và chính thế hệ tài năng như Nguyễn Du đã gặp nhiều ngang trái trong cuộc đời. Đến đây, Nguyễn Du tự thấy mình có thể xếp vào cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh qua câu thơ: Phong vận kì oan ngã tự cư. Lời oán trách không chỉ thể hiện sự bất bình, sự đau khổ và bất lực của nhà thơ trước những bất công của xã hội đã chà đạp lên giá trị văn chương, nghệ thuật thời phong kiến. Biết oán ai bây giờ, chỉ biết oán trời, oán vận. Trời vốn vô tình với những con người tài hoa, hiện tại là Nguyễn Du và trước đó 300 năm là nàng Tiểu Thanh còn về sau hậu thế cũng sẽ có những con người phải chịu nỗi ấm ức này. Có lẽ chính bản thân Nguyễn Du thời điểm này và cả về sau cũng không thể lý giải được những ngang trái mình gặp trên đường đời. Những tâm sự của các thi sĩ đời xưa như: thời trai trẻ ta cũng là kẻ có tài, mà vẫn phải chịu cảnh lang thang mười năm gió bụi đã trở nên quá phổ biến. Câu hỏi về cuộc đời cứ mãi không có câu trả lời, va đập vào sự vô định vô hình tạo nên nỗi đau thấm gan thấm ruột.

Sau cái chết của nàng Tiểu Thanh, đến 300 năm sau vẫn có Nguyễn Du ngồi bên cửa sổ trước tập thơ, câu chuyện về nàng mà cảm thương, xót thương cho số phận của người con gái ấy. Vậy, Nguyễn Du – người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh cũng tự hỏi:

Bất tri tam bách dư niên hậu.

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Không biết hơn ba trăm năm sau

Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

Người xưa cho rằng, những người cùng cảnh ngộ sẽ có sự thấu hiểu và cảm thương cho nhau sâu sắc hơn bất kỳ ai. Giống như Nguyễn Du cảm thương số phận nàng Tiểu Thanh, Thúy Kiều cũng đã từng khóc than và tỏ lòng thành với nàng Đạm Tiên. Những con người đồng khí sẽ thường gặp nhau dù có cách nhau nhiều thế kỉ, họ cũng sẽ gặp nhau trong tâm tưởng, trong sự hoài niệm. Nguyễn Du dù cách Tiểu Thanh tới 300 năm, nhưng trước cuộc đời, trước số phận của nàng Nguyễn Du không tránh khỏi sự đồng cảm, lời khóc than. Và rồi, chính Nguyễn Du nghĩ đến cuộc đời của mình và tự hỏi rằng: liệu hậu thế về sau, liệu 300 năm có lẻ nữa, người đời có ai cảm thương cho số phận của ông như chính ông đã cảm thương cho số phận của nàng Tiểu Thanh hay không. Cũng từ đây, ta thấy được một nỗi cô đơn, nỗi cô độc giữa chính cuộc đời, chính thời đại chẳng thể tìm được người tri âm, tri kỷ. Với mong muốn ấy, Tố Như khát khao hậu thế về sau có thể có người trở thành tri âm của ông qua những tác phẩm ông để lại cho cuộc đời.

Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ thể hiện nỗi lòng, sự cảm thông của đại thi hào Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh. Cũng qua đó, Nguyễn Du cảm thán cuộc đời, cảm thán cuộc đời mình dường như cũng giống nàng Tiểu Thanh. Cũng như những bài thơ khác của ông, Độc Tiểu Thanh kí mang đầy giá trị nhân đạo khi Nguyễn Du đã nhắc đến vấn đề cuộc sống của những con người bị cái ác, bị xã hội vùi dập và đặc biệt là người phụ nữ trong thời đại xưa. Ông không chỉ thể hiện sự xót thương mà còn cả sự trân trọng những gì họ để lại cho đời sau. Trước tấm lòng của Tố Như, chẳng cần đợi đến 300 năm sau, Tố Hữu đã “tri âm” Nguyễn Du qua những vần thơ da diết:

Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)


Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí - Mẫu 3

Nguyễn Du dường như có một tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chính vì thế những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh được nhà thơ đặc biệt quan tâm kể về cuộc đời họ trong những trang thơ của mình. Nhắc đến đây thì chúng ta hay nhớ đến tác phẩm Truyện Kiều với nàng Kiều xinh đẹp nhưng bạc mệnh. Thế nhưng nhà thơ Nguyễn Du còn bày tỏ sự thương cảm của một người con gái hồng nhan bạc mệnh khác đó là Tiều Thanh trong tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí. Đồng thời qua đây ta còn có thể thấy được những tâm sự chất chứa trong nỗi lòng của Nguyễn Du.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, chính vì thế ta đi phân tích lần lượt theo kết cấu của thể thơ để thấy được số phận người con gái chết oan ức ấy đã được Nguyễn Du cảm nhận như thế nào qua cảnh vật Tây Hồ. Đồng thời chúng ta cũng hiểu được những tâm sự của nhà thơ muốn gửi đến độc giả.

Trước hết là hai câu thơ đầu, cảnh Tây hồ hiện lên không đẹp một cách bình thường mà nó mang đến sự oan khuất của người đã mất:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

(Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. )

Cái cảnh Hồ Tây kia tưởng chừng là cảnh đẹp nhưng lại không phải, hiện tại bây giờ nó đã hóa gò hoang. Cái chứ “hoang” kia như thể hiện được hết những hoang sơ không bóng người không một âm thanh nơi đây. Cảnh tượng như khắc vào trong lòng người đọc những âm u cùng cốc của cảnh vật. không biết rằng cảnh còn đẹp nhưng cái chết của người con gái đẹp kia làm cho nhà thơ cảm thấy nó không còn đẹp nữa hay là cảnh đẹp ngày xưa nay đã không còn đẹp như trước. Phải chăng chính cái chết oan của người con gái kia làm cho nó không còn đẹp như trước nữa và phải chăng là điều đó chỉ có nhà thơ cảm nhận được thôi?. Dù hiểu thế nào đi chăng nữa thì nơi đây quả thật có một sự âm u quá lớn. Người con gái Tiểu Thanh khi còn sống đàn ca, họa thơ làm cho cảnh Tây Hồ vốn đẹp cũng đẹp hơn nên khi nàng bị người vợ cả của chồng hãm hại mà chết thì cái chết ấy cùng với sự uất hận làm cho cảnh Tây Hồ không còn được như trước nữa. Bên song mảnh giấy như được nhân hóa mang một tâm trạng thổn thức không yên. Mảnh giấy tàn ấy mà vẫn có thể thổn thức được nữa sao hay đó chính là tâm trạng của người con gái đã mất. Cô không cam tâm với kết cục số phận mình nên thổn thức. Nhưng cũng có một ý nghĩa là mảnh giấy ấy chính là bài ký mà nhà thơ thể hiện sự đồng cảm của mình viếng nàng đã khuất mà thôi. Tóm lại qua hai câu thơ đầu ta thấy được một cảnh tượng thể hiện sự thương xót uất hận.

Đến hai câu thơ sau nhà thơ đi vào nói đến sự nghiệp văn chương của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Và ở đây nhà thơ như tìm được một người đồng điệu với tâm hồn văn chương của mình:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư. ”

(Son phấn có hồn chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương. )

Hai câu thơ đầu như là cái nền để nói đến hai câu sau, chính cái chết làm cho Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang kia lại làm cho con người ấy dẫu bị chôn vùi trong hàng ngàn lớp đất cũng vẫn hận. Hình ảnh “son phấn” kia để chỉ người con gái Tiểu Thanh xinh đẹp. Ở đây nhà thơ không cần nói đến sự xinh đẹp của nàng Tiểu Thanh mà chỉ cần qua hình ảnh ấy ta cũng hiểu được ẩn ý của nhà thơ để thể hiện người con gái xinh đẹp ấy. Tuy nàng đã bị chôn vùi xuống dưới lớp đất kia nhưng hồn nàng cũng vẫn hận. Văn chương của nàng như vẫn còn vương trên cõi đời này. Người con gái kia thì còn có mệnh chứ văn chương kia có mệnh hay không. Cái mệnh của văn chương phụ thuộc vào cái mệnh của người sáng tác ra nó. Vậy người sáng tác ra nó mất đi rồi nhưng văn chương kia đốt hãy còn vương trên cõi đời này. Như vậy là cái mệnh văn chương kia còn dài hơn cái mệnh của người con gái.

Chính bởi tài sắc, chính bởi hồng nhan những bạc mệnh ấy cho nên nàng Tiểu Thanh chết đi để lại nỗi hờn kim cổ. Đó là một nỗi uất hận sâu sắc:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kỳ oan ngã tự cư. ”

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang. )

Nỗi hờn kim cổ ấy biết hỏi trời tại sao được nhưng trời cũng không trả lời được vì cái án phong lưu ấy khách tự mang vào người mình thôi. Ở đây Nguyễn Du thể hiện quan điểm của bản thân mình về chữ tài và chữ mệnh. Người con gái càng xinh đẹp càng tài sắc trong cái xã hội cũ ấy thì chỉ có thể có một mệnh bạc bẽo mà thôi:

“Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Nguyễn Du thấy được nàng là người cùng hội cùng thuyền với mình về cái sự phong nhã, cái sự nghiệp văn chương. Thế nhưng lại mắc phải cái oan ức lạ thường mà người trung đại trọng nam khinh nữ làm nên.

Hai câu thơ cuối cất lên với những tâm sự mà Nguyễn Du thể hiện cho chính mình:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Nhà thơ khóc thương cho người con gái ấy còn không biết rằng khi nhà thơ mất đi có ai khóc ông như ông khóc nàng Tiểu Thanh hay không. Ông cũng có những tính cách phong nhã như nàng, cũng có cái án văn chương ấy liệu rằng khi ông mất đi rồi không biết có ai đồng điệu với tâm hồn văn chương của ông mà khóc thương cho ông hay không. Và câu hỏi ấy đã kết thúc bài thơ và để câu trả lời cho người đời sau trả lời hộ.

Như vậy qua bài thơ ta thấy được số phận của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Đồng thời ta cũng thấy được những tâm sự của nhà thơ Nguyễn Du về sau này. Và thực tế đã cho thấy người đời ngày nay vẫn ca tụng đến ông với sự tài hoa qua truyện Kiều.


Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí - Mẫu 4

Nguyễn Du tên là chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (Nhà săn bắn núi Hồng Sơn), sinh năm 1765 thời Lê mặt tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí là một bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán, được in trong Thanh Hiên thi tập, thể hiện lòng nhân ái và sự đồng cảm của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh tài sắc nhưng phận bạc.

Nguyễn Du với Tiểu Thanh là hai người xa lạ. Vậy Tiểu Thanh là ai?

Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi, cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nỗi uất ức đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng bài thơ đã bị người vợ cả đốt, may mắn có một số bài thơ còn sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt tên là Phần dư (Bị đốt còn sót lại). Sống trong tình cảnh đó, Tiểu Thanh sinh bệnh và từ giã cõi đời ở tuổi 18. Nguyễn Du cảm thương người con gái tài sắc phận bạc ấy mà làm bài thơ này. Bài thơ chữ Hán được dịch nghĩa theo văn xuôi là:

Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi. Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước của sổ. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở. Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được. Sống phong lưu, nhàn nhã cũng tự mang bản án vào mình. Ta tự thấy là người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Không biết hơn ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như?

Bài thơ khá hay nên có nhều người dịch ra tiếng Việt. Giản Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Quách Tuân, Vũ Tam Tập dịch theo thể thơ của nguyên tác, riêng Vũ Hoàng Chương thì diễn ra thơ lục bát. Dù là hình thức nào, người dịch vẫn không làm chệch hướng nội dung của bài thơ. Ở đây, chúng ta tìm hiểu, cảm nhận bài thơ theo bản dịch của Vũ Tam Tập.

Hai câu đề của bài thơ:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Đấy là hai câu thơ tức cảnh sinh tình dù bài thơ không được sáng tác tại chỗ (Tây Hồ). Đây là cảnh trong tâm tưởng của nhà thơ. Mà đúng thế. Nhà riêng của một nhà quyền quý chắc chắn là đẹp, cảnh Tây Hồ vốn đẹp nổi tiếng. Hiện thực là thế, nhưng với đời của nàng Tiểu Thanh, với nhà thơ thì không thế. Cảnh đẹp ấy, trong tâm tưởng của nhà thơ đã “hóa gò hoang”. Một đồi đất nhỏ thì có gì là đẹp! Mà đó là nấm mồ vô chủ ai mà đến thăm (Truyện Kiều) thì người đang nằm dưới lòng đất kia lại càng lạnh lẽo, càng cô đơn. Người đang nằm dưới lòng “gò hoang” kia, nàng Tiểu Thanh bạc mệnh kia chỉ còn lại ở dương thế “mảnh giấy tàn” là phần di cảo của Tiểu Thanh Kí. Chính hai chi tiết, hai hình ảnh “gò hoang” và “mảnh giấy tàn” này là nguyên nhân khiến nhà thơ “thổn thức bên song”. Cảm xúc của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh được diễn tả rõ hơn ở hai câu thực:

Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Hoán dụ “son phấn” để chỉ nàng Tiểu Thanh. Tiểu Thanh dù đã chết (chôn) nhưng linh hồn chắc phải xót xa, căm giận người đã đốt những trang thơ của nàng. “Hận” vì hai lẽ: ghen tuông mù quáng khiến nàng phải chết, và đốt những trang thơ vốn chẳng có số phận {mệnh), và chúng vẫn không cháy hết như còn nuối tiếc (còn vương) muốn giữ phần còn lại cho hậu thế.

Trên là những câu thơ tức cảnh sinh tình, cảm thương cho người tài sắc nhưng bạc phận. Từ đó nhà thơ đã bàn rộng thêm ở hai câu luận:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang

Hình như nhà thơ muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lòng mình rằng xưa nay những người tài hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều. Việc đó thì chỉ có trời mới hiểu. Nhưng dù trời có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét của người vợ cả, của người đời về lối sống phong lưu đài các, nhàn nhã của người có tài. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Ban đầu, các nhà văn xưa mượn thuyết tài mệnh tương đối này để miêu tả cuộc đời của những phụ nữ có nhan sắc, hiền đức nhưng phải chịu nhiều nỗi oan khiên. Nguyễn Dữ với truyện Người con gái Nam Xương, Nguyễn Gia Thiều viết về cung nữ trong Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần Côn với người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm… Đấy là những mảnh đời riêng biệt.

Riêng với Nguyễn Du, nhà thơ lại quan tâm đặc biệt đến đời của những phụ nữ có cả sắc lẫn tài “thi hoa lẫn… cung thương làu bậc ngũ âm…” (Kiều) khá tương đồng với thân phận của những nhà nho thất sủng trong xả hội loạn lạc, suy thoái. Ay là Dương Quý Phi, Tiểu Thanh, Người con gái gảy đàn ở Thăng Long trong thơ chữ Hán; là Đạm Tiên, Thúy Kiều trong Truyện Kiều. Ây là những kẻ “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” mà nhà thơ cảm thông với họ đồng thời cũng ngụ ý ví với thân phận của mình.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Ấy là dự cảm của nhà thơ về số phận của mình. Với Tiểu Thanh, người phụ nữ xa lạ có phần đời bất hạnh khiến nhà thơ thương khóc như vậy dù nàng sống trước nhà thơ ngoài mấy trăm năm, không biết ngoài ba trăm năm sau có ai thương cảm khóc nhà thơ chăng?

Biết được số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng đến số phận của mình. Đúng vậy, nhưng như trên đã viết, nhà thơ nghĩ đến thân phận của những nhà nho, những người có tài, trong đó có ông. Đấy là mối đồng cảm “tình lại gặp tình”, như Thúy Kiều trứớc mộ Đạm Tiên, “thấy người nằm đó biết sau thế nào?” Đó là sự liên tưởng, mối ưu tư tự nhiên của những người có đời sống tinh thần thiên về tình cảm.

Trước mộ Đạm Tiên:

Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,

Thác là thể phách còn là tinh anh”

Công chúng, thời nào cũng thế, rất công minh trong việc tìm tòi, chắt lọc “tinh anh” của “đấng tài hoa”. Điều ấy chúng ta thây ở tục ngữ, những bài ca dao, những tác phẩm văn chương có từ thuở xa xưa tới nay vẫn còn được truyền tụng. Ngay cả Truyện Kiều, hay Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du đã qua hai trăm năm vẫn còn được truyền tụng, và sẽ còn được truyền tụng lâu dài.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 08/04/2022 - Cập nhật : 26/11/2022