logo

Bình giảng Độc Tiểu Thanh kí

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Bình giảng Độc Tiểu Thanh kí. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Bình giảng Đọc Tiểu Thanh kí - Bài mẫu 1

Độc Tiểu Thanh kí nằm trong tập Thanh Hiên thi tập là một thi phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du.

Sức hấp dẫn lâu bền của bài thơ không chỉ bởi nó được viết bằng thái độ “Mục trung sở xúc, năng vô lệ (Không thể không rơi lệ vì những điều trông thấy)” mà còn bởi “Trông người mà ngẫm đến ta”, là lời tự thương mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc. Ông vĩ đại trước hết bởi cái tấm lòng yêu thương con người vô hạn, vẹn nguyên. Trong thẳm sâu của tái tê lòng, ông dành một khoảng lặng mênh  mông cho những vần thơ khóc thương người phụ nữ. Những điều trông thấy về kiếp sống đa đoan của phận đàn bà đã thực sự làm lay động người nghệ sĩ có “đôi mắt trông suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới ngàn đời” tạo nên những “tiếng thơ lay động đất trời”…

Trong những vần thơ, câu văn quặn thắt, chan chứa tình người, tìm về Độc Tiểu Thanh kí để một lần nữa ta lại khắc  khoải một nỗi u  hoài trong một miền đau khôn tả. Đắm chìm trong một không gian tâm tưởng - cái không gian ba chiều của tiếng khóc Tố Như để lại càng thấm buốt cái khát vọng tri âm muôn thuở của những trái tim nhân bản.

Cảm xúc trước số phận bi kịch của Tiểu Thanh - cô gái tài sắc bạc mệnh ở Trung Quốc sống vào đời Minh - Nguyễn Du viết nên bài thơ này.

Được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ có thể phân chia theo kết cấu thường gặp, cũng có thể chia thành hai phần đăng đối. Bốn câu đầu là khóc người, thương người, là lệ dành cho Tiểu Thanh; còn bốn câu sau Nguyễn Du trở về niềm tự thương, là lệ dành cho chính mình. Bài thơ vì thế vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, vừa hướng ngoại, vừa hướng nội, vừa đồng cảm, tri âm, vừa là lời tự giãi bày cái tôi tràn đầy khao khát một niềm tri âm  đến khắc khoải.

Là bài thơ trữ tình, Độc Tiểu Thanh kí là sự bộc lộ dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Dòng cảm xúc ấy được thể hiện một cách rõ nét trong kết cấu của từng cặp câu thơ. 

Bình giảng Độc Tiểu Thanh kí hay nhất

Bài thơ mở ra trước mắt ta không gian hoang vắng đến trơ trọi: Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang. Tây Hồ ngày xưa là cảnh đẹp, nay là gò hoang. Nguyễn Du dùng từ “tẫn”- “tẫn” là hết sạch, không còn gì. Đó là sự đối lập tuyệt đối, đối lập giữa quá khứ với hiện tại, giữa vẻ đẹp huy hoàng với hoang vu cô quạnh. Hình ảnh gò hoang đặt cạnh cảnh đẹp đem đến cảm giác hoang lạnh, trơ trọi, gợi lên một nghịch cảnh, trớ trêu.

Câu thơ mở đầu gợi lên bao niềm trắc ẩn. “Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh trong một hoàn cảnh có phần giống  Kiều đến với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên sè sè nấm đất bên đường gợi lên ở Kiều bao nỗi thương  tâm. Cái gò hoang nơi chôn Tiểu Thanh gợi lên ở Nguyễn Du bao điều thổn thức” (TS Lã Nhâm Thìn). Câu thơ tưởng là miêu tả nhưng thực sự lại là lời than. Đó là tiếng thở dài bi thiết cho nhân sinh với những đổi thay, thịnh suy, dâu bể, là lời than trước cái đẹp bị vùi dập, tàn phá phũ phàng. Từ cái đẹp bị tàn phá, Nguyễn Du đi vào một nhân chứng điển hình:

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Nhà thơ tri ngộ, viếng thương Tiểu Thanh qua một tập sách bị đốt dở (“nhất chỉ thư”) mà thôi. “Nhất chỉ thư” ấy vừa là chứng tích của một thời biến thiên, vừa là chứng tích của một đời đau khổ. Từ “độc” đặt đầu câu thơ thứ hai mở ra mênh mang tâm trạng. “Độc” xuất hiện rất nhiều trong Đường thi. “Độc” có nghĩa là đọc (động từ), là một mình, là cô đơn, cô độc (tính từ). Vì thế “độc” trong trường hợp này chỉ dừng lại ở nghĩa một mình là chưa ổn, vì một mình chưa chắc đã cô đơn, cô độc. Ý thơ hàm chứa nhiều ẩn số của cảm xúc, tâm trạng. Hai từ “độc” và “nhất” nằm trong câu bảy tiếng trở thành điểm nhấn. Giữa dòng đời mênh mang, một lòng đau tìm gặp một hồn đau để rồi niềm xúc động lại càng da diết.

Nếu ở  hai câu thơ đầu mới chỉ dừng lại ở lời giới thiệu cuộc tri ngộ thì ở hai câu thực Nguyễn Du nói thẳng về đối tượng mà mình muốn nói:

Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Lời thơ bàn về cái oan, cái hận của cuộc đời Tiểu Thanh. Tiểu Thanh - một cô gái đẹp có tài văn chương... Vậy mà nàng phải chết trẻ, văn chương bị đốt dở dang. “Son phấn” và “văn chương” ẩn dụ cho sắc đẹp và tài năng. Tất cả đều bị chôn và đốt. Sự vùi dập, tàn phá đến lạnh lùng và khắc nghiệt. Nguyễn Du trải lòng mà xót xa về những nỗi oan trái trong cuộc đời Tiểu Thanh đồng thời ý thơ còn khẳng định sự vĩnh hằng của cái đẹp, tài năng. Son phấn- chôn- vẫn hận; văn chương- đốt- còn vương. Nỗi oán hận còn vương khắp. Giọt nước mắt khóc thương cho nàng Tiểu Thanh gắn với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ cái đẹp và tài năng.

Là người nghệ sỹ chân chính, Nguyễn Du không chỉ đau đáu cõi nhân sinh mà ông còn luôn trăn trở về nỗi đau của những tài năng và về thiên chức của người nghệ sĩ. Nếu xã hội cũ đẩy đưa người phụ nữ sắc đẹp, tài năng thiên bẩm vào ngọn đèn tù mù, nhấn chìm vào bóng đêm thì Tố Như đứng hẳn về phía họ để cảm thông, để ca tụng hân hoan, tán dương và ngưỡng vọng. Đó là nét tiến bộ trong tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du.

Với nhà thơ - cái đẹp bao giờ cũng vĩnh hằng - niềm tin vào cái đẹp là vĩnh cửu. Ngẫm ra cảm hứng trước cái đẹp trở thành quy luật đối với người nghệ sĩ. Nguyễn Trãi cảm khái trước cảnh sông nước ẩn tàng công danh chiến tích của người anh hùng hào kiệt; Bà Huyện Thanh Quan than thở cho một triều đại rực rỡ đã đi qua, và sau này Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin mãnh liệt vào cái đẹp qua con chữ của Huấn Cao được Viên quản ngục nâng niu, cất giữ. Đó cũng chính là lời khẳng định của Thanh Thảo về sức sống của tài năng, của cái đẹp khi viết về Lor-ca:

Không ai chôn cát tiếng đàn

Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

Giọt nước mắt vầng trăng

Long lanh trong đáy giếng

Đàn ghi ta của Lor-ca

Trông người mà ngẫm đến ta

Trong Tiểu Thanh thấp thoáng bao kiếp người tài hoa mà bạc mệnh, ở đó có Nguyễn Du. Vì thế nếu bốn câu thơ đầu, giọt nước mắt của Nguyễn Du rỏ xuống cho Tiểu Thanh thì bốn câu sau lại là giọt lệ chảy vào trong cho mình, cho một Tố Như với bao niềm đau chôn giấu tận đáy lòng.

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.

“Nỗi hờn kim cổ” là nỗi hờn, nỗi oan của những người tài hoa, trí tuệ xưa nay. Nghĩa là cái hận ấy triền miên, ám ảnh, theo đuổi không thôi. Cái hận ấy tự mang trong mình, không hỏi trời được (“thiên nan vấn”). Hỏi trời - trời cao đâu có thấu. Cuộc sống nơi trần thế cứ đọng mãi “nỗi đau nhân tình”- nhức nhối tận tâm can“. Một câu hỏi lớn không lời đáp” (Huy Cận), vì thế mới càng hận khi phải mang cái “án phong lưu”. Ba từ “ thiên nan vấn” vang lên đầy xót xa. Đó không còn là câu, là chữ bình thường mà là lời chất vấn, phê phán những điều phi lí…

Mạch văn như một dòng chảy nối tiếp nhau những con sóng dài, ngắn, nó “ dồn toa” và “ tắc đường”. “Trời khôn hỏi” chính là sự tắc đường. Cái va đập của câu thơ dội lại xoáy sâu vào lòng người nỗi đau máu thịt... Ngẫm ra ở đời, ở trong xã hội phong kiến, có những điều thật khó hiểu, con người phải gánh chịu:

Xanh kia thăm thăm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?

                 (Chinh phụ ngâm)

Không phải ngẫu nhiên hay vô lý khi Nguyễn Du tự nhận mình là người “mang cái án phong lưu”. Từ cuộc đời, số phận của Tiểu Thanh mà ngẫm đến mình. “Khách tự mang”- Tố Như tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh. Câu thơ thể hiện cái nghẹn ngào, uất giận của nhà thơ. Ở đây, ta hiểu được tại sao Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh, về một con người sống cách mình mấy trăm năm lại da diết đến thế. Vì ông viết về Tiểu Thanh cũng là viết về mình. Với Nguyễn Du thì Tiểu Thanh là một người xa nhưng không lạ. Hoàn cảnh xã hội thì cố nhiên mỗi người một vẻ nhưng số phận những kẻ tài hoa trong xã hội cũ thì họ lại giống nhau. Lời thơ còn là lời tố cáo xã hội vùi dập con người.

Bằng chính sự trải nghiệm, “va đập” cuộc đời với sự đồng cảm đến mức tri âm khi đến với “Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du đã “trông người mà ngẫm đến ta” để rồi tự hận, tự thương da diết. Không ẩn dụ hay kí thác, kết thúc bài thơ Nguyễn Du trực tiếp giãi bày nỗi lòng khắc khoải của mình:

Không biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Nếu sáu câu đầu Nguyễn Du viết về nàng Tiểu Thanh, về những kiếp người tài sắc bạc mệnh thì hai câu cuối này chuyển sang lời độc thoại, lời tự thương dưới hình thức một câu hỏi. “Bất tri” là không biết - niềm tự thương, tự đau lên đến cực độ. Ba trăm năm sau không biết có ai ( “hà nhân”) sẽ nhỏ giọt lệ khóc cho Tố Như như ông đã khóc cho nàng Tiểu Thanh. Ở đây Nguyễn Du không hỏi quá khứ hay hiện tại mà hỏi tương lai. Nếu ở hai câu thực câu hỏi vang lên tận trời xanh thì đến đây nhà thơ không hỏi trời mà hỏi đời, hỏi người.

Thực ra, không phải Nguyễn Du bi quan khi nghĩ về tương lai mà ông đang cô đơn, cô độc trong hiện tại. Câu hỏi cất lên buồn thống thiết. Thương Tiểu Thanh là một cách tự thương mình - thương mình bơ vơ không tri âm, tri kỉ. Đó là nỗi trăn trở sâu sắc, là khát vọng tri âm giữa cuộc đời. Đây còn là lời tố cáo - tố cáo cái vô nghĩa của cuộc đời, cái cô độc, mỏng manh của tài sắc và sự bất công của xã hội đối với người tài hoa.

Nếu bốn câu thơ đầu là hiện thực được cắt ngang thì bốn câu sau mạch thơ lại đi theo chiều dọc để  “trông người mà ngẫm đến ta”. Nói cách khác đằng sau lòng thương người, thương mình của Nguyễn Du là nỗi đau thời thế. Thương người là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo bao la, vĩnh cửu; thương mình là nét mới mang tinh thần nhân bản của thời đại cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX. Từ tự xót, tự thương mà đi đến khát vọng tri âm giữa cuộc đời. Đó chính là nỗi đau nhân tình mang giá trị nhân văn cao đẹp.

Thế mới hay, đồng cảm, tri âm giữa cuộc đời là nhu cầu tự thân và chính đáng của con người. Nói như nhà văn Bùi Hiển “ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông, sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết”. Còn nhớ Khuất Nguyên đã từng theo đuổi đến cùng niềm tri âm đồng điệu: “Quản bao nước thẳm non xa/ Để ta tìm kiếm cho ra bạn lòng; Lý Bạch cũng đã từng chia sẻ: Có bạn không có rượu/ Một mình chuốc dưới hoa/ cất chén mời trăng sáng/ Mình với bóng là ba”. Nhà thơ Thanh Thảo viết Đàn ghi ta của Lor-ca như là khúc ca tưởng niệm, vừa để tri âm với Lor-ca- người nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha...Năm 1961, Tố Hữu viết Kính gửi cụ Nguyễn Du như một nén tâm nhang gửi đến nhà thơ có trái tim nhân đạo sâu sắc...

Độc Tiểu Thanh kí mãi là bài thơ hay bởi còn đó tiếng khóc lay động, thấm thía tâm can người đọc biết bao thế hệ. Bởi vì đó là tiếng khóc thống thiết cho người, cho ta...


Bình giảng Đọc Tiểu Thanh kí - Bài mẫu 2

Nghệ sĩ thường có cảm giác cô đơn, đặc biệt đối với những người nghệ sĩ lớn thì điều ấy càng khó tránh khỏi. Đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ lớn, tất yếu vướng vào định mệnh ấy. Tìm hiểu về cuộc đời ông, đọc thơ ông, ta bắt gặp những suy tư, trăn trở, những dày vò, đau đớn của một trái tim chan chứa yêu thương, một tâm hồn lẻ loi khao khát tri âm. “Độc Tiểu Thanh kí” là một bài thơ như thế. Thi phẩm này tựa như một “điệu hồn” tri âm “đi tìm những tâm hồn đồng điệu”.

Cuộc đời của người được mệnh danh là có “con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời” (bài Tựa Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân) ấy thật lắm bất hạnh. Cuộc sống của một công tử sinh trưởng trong dòng dõi quý tộc nhanh chóng qua đi khi Nguyễn Du mất cha (năm 1776), rồi mất mẹ (1778), đem thân nương nhờ người anh cả là Nguyễn Khản thì cũng nhanh chóng bơ vơ vì người anh bị khép tội mưu loạn, bị bãi chức, bị bắt giam (1780), lại tiếp tục khăn gói nương nhờ… Những biến động dữ dội ấy, những trải nghiệm của “mười năm gió bụi” cùng “những điều trông thấy” trước ba động của cuộc đời đã hun đúc nên một Nguyễn Du thật cô đơn, cô độc. Chẳng phải ngẫu nhiên mà ông phải thốt lên “Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào. Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường” (trích Truyện Kiều) khi nhận ra đời Kiều cũng như đời mình những năm tháng làm quan bất đắc chí; hay tâm sự “Vui là vui gượng kẻo là. Ai tri âm đó mặn mà với ai ?” (Truyện Kiều). Cô đơn là thế song trái tim ông luôn ấm nóng tình cảm với bao kiếp người nghèo khổ, đặc biệt là những phụ nữ tài sắc bất hạnh. Ông đã sưởi ấm cho Thúy Kiều, Đạm Tiên (Truyện Kiều), cho cô Cầm (Long thành cầm giả ca), cho mẹ con yếu ớt trong Sở kiến hành, cho nàng Tiểu Thanh đoản mệnh… Thương người rồi lại thương mình. Thấu hiểu, đồng cảm với những con người ấy nghĩa là Nguyễn Du đã trở thành tri âm của họ. Còn với bản thân lúc ấy, liệu ông có bắt gặp tri âm không khi băn khoăn “Bất tri tam bách”. Câu hỏi ấy là khao khát kiếm tìm của thi nhân, là sự thôi thúc bao lớp người hậu thế.

Nguyễn Du cô đơn là thế, còn Tiểu Thanh thì sao? Cô gái Trung Quốc sống đầu đời Minh ấy nổi tiếng tài hoa, xinh đẹp. Nàng không chỉ có nhan sắc hơn người mà còn có tài năng nghệ thuật, tinh thông nhiều nghề, kể cả âm luật. Trớ trêu thay, nàng cũng không thoát khỏi định mệnh của “phận hồng nhan”. Năm 16 tuổi, cô phải làm vợ lẽ. Chồng cô, một công tử quyền quý nhưng ngốc nghếch, chẳng phải kẻ hào hoa phong nhã gì. Cô lại còn bị người vợ cả hay ghen hành hạ, bắt phải sống riêng trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Cô buồn khổ, uất ức, tấm lòng gửi cả vào thơ, rồi sinh bệnh và chết ở tuổi 18. Người vợ cả kia không chỉ hành hạ Tiểu Thanh cho đến chết mả còn đốt những bức tranh chân dung nàng, đốt cả những bài thơ của nàng, may mắn còn sót lại một số bài thơ. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt tên là phần dư. Trân trọng nhan sắc, quý mến tài năng của Tiểu Thanh bao nhiêu, Nguyễn Du càng cảm thông, thương xót cho số phận của nàng bấy nhiêu. Đó chính là nguồn cảm hứng để đại thi hào một lần nữa cất lên tiếng thơ vang động lòng người. Đó cũng chính là tiếng nói tri âm của Nguyễn Du giành cho cuộc đời bạc mệnh ấy. Sự thấu hiểu và đồng cảm với Tiểu Thanh không chỉ đến từ “con mắt”, “tấm lòng” mà còn đến từ những trải nghiệm của cuộc đời mịt mù gió bụi mà Nguyễn Du đã nếm trải suốt bao năm. Cuộc đời gặp cuộc đời, tấm lòng gặp tấm lòng, tuy số phận có khác nhau, tuy cách xa không gian, thời gian, thời đại, song không ngăn được sự tri âm của một bậc đại quan đối với một nữ nhi thường tình.

Sự gặp gỡ của Nguyễn Du với Tiểu Thanh được thể hiện ngay trong nhan đề bài thơ: Chữ “Độc” được dịch là đọc, “Kí” là một thể văn dùng để ghi chép. Vậy có thể hiểu “Độc Tiểu Thanh kí” là đọc những ghi chép về Tiểu Thanh hoặc đọc những ghi chép của Tiểu Thanh. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng nhận thấy rằng tác giả bài thơ đã có những hiểu biết về đối tượng cảm thương của mình. Từ hiểu biết để rồi thêm lần nữa đau đớn, xót xa, tiếc nuối cho số phận bất hạnh của người phụ nữ, cho những giá trị tinh thần cao đẹp của con người bị vùi dập.

Hai câu thơ mở đầu đã cho thấy thi nhân và Tiểu Thanh đều lẻ loi, cô độc:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

(Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,

Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.)

Nếu chữ “độc” trong nhan đề bài thơ được hiểu là “đọc” thì ở câu thơ thứ hai được hiểu là “một mình”. Hai chữ “độc điếu”  mà bản dịch thơ chưa chuyển tải hết ý một  mình, cô độc đã cho ta thấy tâm thế của Nguyễn Du khi tiếp cận cuộc đời Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc bất hạnh ấy cũng chỉ được tái hiện qua “nhất chỉ thư”, qua những gì còn sót lại ít ỏi để người đời sau có thể hiểu. Vậy là cả người viếng và người được viếng đều cô đơn. Nghĩ về Tiểu Thanh, Nguyễn Du nhớ ngay tới Tây Hồ- nơi nàng đã sống từ khi lấy chồng, nơi đã gắn bó với Tiểu Thanh, cũng là nơi đã chôn vùi cuộc đời và nghệ thuật của nàng. Chữ “uyển” trong “hoa uyển” thường chỉ khu đất rộng, cảnh trí đẹp, dành làm nơi cho vua chúa ngoạn du, hoa nghĩa bóng là đẹp. Vậy là nhắc tới Tây Hồ là nhắc tới cái Đẹp, cái đẹp của không gian, cảnh sắc, cái đẹp của con người. Nhưng tất cả giờ chỉ còn là bãi hoang. Chữ tẫn trong câu thơ chủ yếu là thanh bằng như kéo nặng câu thơ, với nét nghĩa là hết thảy, triệt để, đã cho thấy sức tàn phá, hủy diệt cái Đẹp của cuộc đời, qua thời gian. Trong câu thơ có giọng xót xa, tiếc nuối của nhà thơ trước cảnh đẹp Tây Hồ; mà thực chất là xót xa, nuối tiếc cho người con gái tài sắc mà mệnh bạc; xót xa cho cái Đẹp bị vùi dập, bị hủy hoại. Mạch cảm xúc thương xót ấy được tiếp nối trong hai câu thơ thực:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

(Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết

Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.)

Chi phấn (son phấn) là hình ảnh chỉ người phụ nữ có nhan sắc, ở đây là Tiểu Thanh. Thần là hồn, là cái tinh anh còn lại sau sự mất đi của thể xác. Vậy là Tiểu Thanh có linh thiêng chắc hải xót xa vì những việc sau khi chết, vì chết rồi mà nàng vẫn không được yên. Nếu son phấn gợi sắc đẹp thì văn chương chỉ tài hoa, trí tuệ của nàng. Con người nàng đã sinh ra là phận đàn bà ắt phải chấp nhận số hồng nhan, cớ sao văn chương, thơ ca không có số mệnh, chẳng có tội tình mà cũng bị làm cho tan tành. Thảo nào mà không còn trên cõi đời này nữa nhưng Tiểu Thanh vẫn chưa được giải thoát, vẫn còn phải thổn thức cả sau khi chết. Sự thổn thức ấy phải chăng là của chính Nguyễn Du đang ai điếu cho một cuộc đời bi đát. Đó cũng chính là tiếng nói bất bình đối với một xã hội mà ở đó vẻ đẹp, tài năng của con người không được trân trọng và bảo vệ.

Có thể thấy xót xa, đau đớn cho cuộc đời của những người phụ nữ có thân phận thấp, có tài năng và sắc đẹp, song bất hạnh là mạch cảm hứng lớn xuyên suốt đời thơ Nguyễn Du. Thương cảm bao nhiêu, thi nhân lại càng băn khoăn, day dứt bấy nhiêu khi đáng lẽ ra những người phụ nữ như thế phải được hạnh phúc. Vậy tại sao? Chất vấn, tự vấn nhiều để rồi tác giả phải chua chát thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều), “Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” (Văn chiêu hồn). Một lần nữa khi đứng trước cuộc đời Tiểu Thanh, Nguyễn Du không ngăn nổi mình trước câu hỏi ấy:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

(Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được

Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã)

Hận là một trong những trạng thái cảm xúc đỉnh điểm trong cung đàn tình cảm, suy nghĩ của con người, khi điều gì đó không thể giải tỏa. Ai hận? Hận ai? Mối hận ấy không chỉ ở đây, trong tình huống này mà là từ xưa đến nay, của người xưa và của người nay. Người xưa có thể là Tiểu thanh và những người như nàng. Người nay có thể là những “hồng nhan bạc mệnh” cùng thời với Nguyễn Du. Hận xã hội phong kiến. Hận những qui luật nghiệt ngã. Hận hai chữ “tài mệnh tương đố”. Hận những nghịch lý mà chẳng thể thoát ra. Chỉ có hỏi trời để mong tìm đáp án cho lời chung ấy, bởi Trời là thượng đế, là đấng tối cao, là nơi duy nhất con người thời ấy tìm đến để bấu víu mỗi khi chênh chao. Song lại không thể hỏi trời vì trời cũng không có lời giải đáp và ta đành bất lực. Thực tế nghiệt ngã ấy là một nỗi “kì oan” mà tất thảy những ai phong nhã đều phải nhận lấy, chấp nhận nếm trải trong suốt cuộc đời. Đến đây, thêm một lần nữa Nguyễn Du đã khái quát được một vấn đề nhân sinh lớn lao.

Tri âm với Tiểu Thanh, khóc thương cho nàng, cũng là khóc thương cho bao người chung số phận. Từ xúc cảm ấy, Nguyễn Du ý thức sâu sắc về giá trị của cái tài, cái Đẹp, về văn chương, về bao lớp người nghệ sĩ như ông. Có lẽ từ mối đồng cảm ấy và từ nhận thức sâu sắc ấy mà Nguyễn Du tự coi mình như người cùng hội cùng thuyền với những người như Tiếu Thanh (ngã tự cư). Nỗi oan lạ lùng của Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của ta. Ý thơ ấy toát lên sự đồng cảm, sự tri âm sâu sắc của đại thi hào đối với người con gái ấy. Vậy là từ thương người, thương đời rối thương chính mình, ý thơ đột ngột mà tự nhiên chuyển từ đối tượng cảm thương sang chính bản thân người cảm thương. Nguyễn Du tự thấy cuộc đời mình, số phận mình cũng có những nét bất hạnh như Tiểu Thanh. Và phải chăng tác giả còn muốn gửi gắm một điều phổ quát hơn thế, đó là thân phận bạc bẽo của lớp người tài hoa như ông trong xã hội phong kiến nhiễu nhương.

Vậy là sống cách Nguyễn Du hàng trăm năm, xa Nguyễn Du vạn dặm, song Tiểu Thanh, người con gái có quãng đời tuổi trẻ sống lẻ loi nơi Cô Sơn, đã tìm được tiếng nói tri âm của mình. Còn Nguyễn Du, giữa cuộc đời này, có tìm được tri âm cho mình?. Bài thơ là một tiếng khóc cho người, rồi khóc cho chính mình, khi thi nhân cảm thấy đời mình không chỉ long đong, lận đận mà còn đơn độc, nên cứ mãi băn khoăn:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Không biết hơn ba trăm năm sau

Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

Hôm nay, mình khóc cho Tiểu Thanh, ngày mai, liệu có ai khóc cho mình? Câu hỏi ấy thể hiện sự cô đơn của nhà thơ trước cuộc đời. Đó cũng là khao khát kiếm tìm tri âm, là hi vọng người gửi cả vào hậu thế. Khao khát ấy thật bình dị, song rất nhân bản. Ba trăm năm có lẻ là con số ước lệ chỉ khoảng thời gian rất dài. Dù thời gian rất dài vẫn không thể chôn vùi hi vọng ấy. Thời gian đã có câu trả lời, chẳng phải đợi đến ba trăm năm đã có biết bao người khóc thương cho đại thi hào dân tộc, có biết bao người đã trân trọng những di sản mà thi nhân để lại. Kính gửi cụ Nguyễn Du của nhà thơ Tố Hữu là một trong những minh chứng cụ thể cho điều đó.

Độc Tiểu Thanh kí là một bài thơ thuộc thể tài tiếng nói tri âm. Vượt ra khỏi mối đồng cảm của một cá nhân với một cá nhân, bài thơ đã đặt ra nhiều vấn đề có tính phổ quát, chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Phải chăng tất cả những điều ấy đã tạo nên sức sống cho một bài thơ ngắn gọn, chạm đến trái tim của bao lớp người.


Bình giảng Đọc Tiểu Thanh kí - Bài mẫu 3

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời nghìn thu”

Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những vần thơ Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng người đọc. Bởi lẽ nhà đại thi hào viết thơ “ như có máu nhỏ trên đầu ngọn bút , nước mắt thấm qua trang giấy”. Thơ ông đề cập sâu sắc đến nỗi đau từ cổ chí kim của con người nhất là người phụ nữ – những “kiếp hồng nhan” hay những kẻ tài hoa mà bạc mệnh.Và “Độc Tiểu Thanh kí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tấm lòng thương người tiếc tài của đại thi hào Nguyễn Du. Chính cái tâm sang ngời ấy đã khiến tác phẩm của ông sống mãi trong suốt trường kì lịch sử hay còn bởi con mắt tinh tường trông 6 cõi như nhà văn, nhà triết học Pháp Didorot nói: “Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường”.

Giữa cuộc sống thường nhật đầy rẫy những bộn bề, lo toan, hiếm có ai thử sống chậm lại để một lần cảm nhận về những điều phi thường trong vô vàn điều hết sức bình thường ấy. “ Tìm ra điều phi thường trong cái bình thường” là một cách khám phá, một cách nhìn sâu sắc mọi vấn đề. Nếu chỉ tìm hiểu về những thứ hào nhoáng, hời hợt ở vẻ bề ngoài thì sẽ chẳng bao giờ ta có thể nhận ra được vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong thứ vật chất phù du ấy. Nhưng “ từ trong cái phi thường ta phải nhận ra được những thứ bình thường”. Đây lại là một cách đánh giá bao quát , đơn giản hóa vấn đề, phải có con mắt tinh tế lắm thì ta mới dễ dàng nhận ra vẻ đẹp bình dị, rất đỗi thân quen của đối tượng cần nhắc đến. Nhận định của Dodirot đã đưa ra một quan điểm hoàn toàn xác đáng : “ Người nghệ sĩ phải có cái nhìn linh hoạt, thấu đáo, đa phương diện về một vấn đề hay đối tượng văn học”.

Mộng Liên Đường chủ nhân có nói: “Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” Thật vậy , tấm lòng Nguyễn Du luôn canh cánh lo cho con người,ông vui với niềm vui của con người, đau cùng nỗi đau con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở với con người. Thơ ông trở nặng suy tư , đau đáu một nỗi niềm : “ Nhân tình thế thái”. Lời thơ như tiếng tri âm, đồng cảm của những kẻ cùng chung số phận đặc biệt là Tiểu Thanh trong tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” .Hai con người như hòa vào làm một để cất lên tiếng than đau đến đứt ruột.

Trong xã hội phong kiến đương thời, có biết bao nhiêu người phụ nữ phải sống trong những nỗi đày đọa triền miên cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Nguyễn Du lại không viết về những người phụ nữ ấy mà chính cái tài “tìm ra điều phi thường trong cái tầm thường” đã giúp ông vượt qua cả rào cản về mặt thời gian( cách xa hơn 300 năm) và không gian địa lí trắc trở( Trung Quốc) để tới tri âm với nàng Tiểu Thanh- người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ.

Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ,giờ chỉ còn lại một số bài thơ gọi là “phần dư”.

Câu thơ đầu tiên cất lên là lời than cho cái đẹp bị dập vùi, tàn phá phũ phàng:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”

Cảm xúc trước sự đổi thay của cuộc đời là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến trong thơ trung đại. Nguyễn Trãi thăm núi Dục Thúy mà cảm khái trước cảnh “rêu phủ nét chữ người xưa”.Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi trước cảnh “dấu xưa xe ngựa” giờ chỉ còn là “ hồn thu thảo”, “ nền cũ lâu đài” gợi nhớ một triều đại rực rỡ đã đi qua. Câu thơ của Nguyễn Du có gợi lên lẽ đời dâu bể nhưng mối thương tâm của thi nhân lại đặt nơi cái đẹp bị tàn phá phũ phàng.Hình ảnh thơ đối lập: cảnh đẹp >< gò hoang gợi nghịch cảnh éo le. Từ “tẫn” trong nguyên bản chữ Hán “tẫn thành khư” gợi sự đổi thay mãnh liệt không còn dấu vết nào.Dường như phải có một con mắt tinh tế lắm mới có thể nhận ra đống đổ nát nơi gò hoang xưa đã từng là một địa danh rất đẹp. Thời gian tàn phá lên mọi cảnh vật , phủ mờ đi tất cả. Đang trong dòng hoài niệm bỗng tác giả sực tỉnh và trở về thực tại, với nghịch cảnh trớ trêu, nghịch cảnh giữa qúa khứ và hiện tại, giữa vẻ đẹp huy hoàng/sự hoang vu cô quạnh.

Nhớ đến Tây Hồ là nhớ đến nàng Tiểu Thanh- người con gái tài hoa bạc mệnh. Nguyễn Du xót xa tiếc nuối, ai oán trước số phận nghiệt ngã của Tiểu Thanh .Cái chết của nàng là bằng chứng xót xa cho một kiếp hồng nhan, từ đó càng nuối tiếc trước cảnh và người đẹp đều chịu chung số phận. Nếu như trong Truyện Kiều, Thúy Kiều tri ngộ với số phận Đạm Tiên qua lời kể của Vương Quan thì ở Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du thấu hiểu nỗi oan khiên của Tiểu Thanh qua “ mảnh giấy tàn” trước song cửa sổ:

“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

Cuộc tri ngộ giữa Thúy Kiều và Đạm Tiên còn có sự chứng kiến của chị em Kiều , còn viếng thăm của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh chỉ qua một tập sách bị đốt dở. Chữ “ độc” và chữ “nhất”trong câu thơ chữ Hán cũng là để nói một lòng đau tìm gặp một hồn đau.Ông đã một mình đối diện với số đời của Tiểu Thanh. Đây phải chăng là sự đồng cảm giữa “tài tử và giai nhân”,giữa “xưa và nay”.

Người con gái với số phận nghiệt ngã là thế nhưng với ngòi bút nhân đạo của mình, ông đã khai phá được những vẻ đẹp tài năng và tâm hồn ẩn sâu bên trong con người nàng. Đời Tiểu Thanh là điển hình của hai nỗi oan lớn: hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố.Người đẹp như nàng mà bất hạnh, chết yểu. Có tài thơ văn như nàng mà bị dập vùi. Di cảo của Tiểu Thanh chính là di hận:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vộ mệnh lụy phần dư”.

Nguyễn Du nhắc đến cuộc đời Tiểu Thanh bằng những ẩn dụ tượng trưng quen thuộc , son phấn là biểu tượng cho sắc đẹp, văn chương là ẩn dụ cho tài năng của Tiểu Thanh .Hai vật thể vô tri vô giác được nhân cách hóa như có “thần”,có “ hồn”. Chính nước mắt và máu của Tiểu Thanh đã tạo nên “cái thần”,”cái mệnh”của son phấn, văn chương, hay “niềm cảm thông lạ lung của nhà đại thi hào dân tộc”(hoài Thanh) đã tạo “thần”,cái “hồn” để nó để cho nó để nỗi hận còn vương đến muôn đời ?Cảm xúc của Tố Như càng dồn nén thì câu thơ càng dẫn đến tính đa nghĩa.Nếu hiểu văn chương là chủ thể tự hận thì dẫn đến cách cảm: son phấncó thần, cũng phải xót xa về những việc làm sau khi chết, văn chương không có số mệnh gì cũng bị đốt dở. Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là đối tượng thương cảm của người đời thì có cách hiểu: son phấn như có thần, sau khi chết người ta còn thương tiếc, văn chương có số mệnh gì mà người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại. Tiểu Thanh đẹp , tài năng là thế,ai mới trông qua tưởng đó là một người phụ nữ “phi thường”,hội tụ tất cả tài năng của quan niệm phong kiến, nhưng họ cũng giống như những người phụ nữ khác đương thời,cũng phải chịu một nỗi đau chung, rất “bình thường” cả về thể xác lẫn tinh thần.

Nhưng xét đến cùng nó cũng quy vào cảm hứng vĩnh hằng của Nguyễn Du trước cái đẹp và tài năng. Ta đã từng bắt gặp nỗi niềm thương cảm của Nguyễn Du thương cho “nghiệp chướng phấn son”, nhưng đồng thời ca ngợi một trang giai nhân tuyệt sắc: “Non bồng xa xuống một cành xinh/ Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành” khi viếng ca nữ đất La Thành. Trong “Độc Tiểu Thanh kí”,cái đẹp có thể tàn về than xác nhưng “chôn vẫn hận”.Cái mệnh của Tiểu Thanh thật ngắn ngủi còn cái mệnh của văn chương thì “đốt còn vương”. Giọt nước mắt xót thương cho số phận Tiểu Thanh đã kết tinh lại thành hạt châu trân trọng và ngợi ca cái đẹp.Nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, xã hội phủ nhận tài năng,trí tuệ của người phụ nữ thì tác phẩm của Nguyễn Du lại càng được đánh giá cao bởi chiều sâu nhân đạo.

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Nguyễn Du đã từ cái hận của Tiểu Thanh mà nghĩ đến cái hận muôn đời, cái hận nay cứ triền miên không bao giờ chấm dứt.Từ nỗi đau riêng của Tiểu Thành mà quy thành nỗi đau từ cổ chí kim của bao kiếp người tài hoa. Nỗi oan của Tiểu Thanh trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du. Do vậy nỗi hận trở nên quá lớn khó mà hỏi trời được: “Thiên nan vấn”. Lời thơ như lời than, oán trách ông trời vì lẽ đời nghiệt ngã, trái ngang đã đẩy bao kẻ phong lưu vào kiếp đời buôn ba, đau khổ.Nhưng có hỏi trời thì cũng chẳngmong một lời giải đáp, vì thế càng hận, càng nhức nhối.Nỗi đau của Tiểu thanh vốn dĩ rất riêng nhưng Nguyễn Du đã tinh tế nhận ra nỗi đau rất bình thường, rất rộng lớn- đó là nỗi đau của cả một lớp người, một thế hệ:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn”

Bên cạnh nỗi hận là cái “án phong lưu”. Và đây lại là một nghịch cảnh chua xót; khách phong lưu mà phải khổ, phải mang cái án oan lạ lung vì nết phong nhã. Đến câu thơ thứ sáu thì khách thể và chủ thể đã hòa vào làm một:

“Phong vận kì oan ngã tự cư”

Câu thơ dịch chữ “ngã” thành chữ “khách” đã không tô đậm được yếu tố chủ thể nhập thân vào khách thể.Nguyễn Du tự cho mình là người cùng hội với Tiểu Thanh.Đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông. Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những ngưòi mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ. Vậy là từ giọt lệ thương người, khóc người, Nguyễn Du đã chuyển sang tự thương mình.
Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ là niềm mong ước được tri âm của Nguyễn Du ở hậu thế:

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du không hỏi quá khứ, hiện tại mà hỏi tương lai, không hỏi trời, đất mà lại hỏi người đời.Hỏi ba trăm năm sau,thiên hạ có ai khác Tố Như?Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đãcó một Nguyễn Du “thổn thức bên song” với “mảnh gả giấy tàn”. Còn Nguyễn Du liệu có ai khóc, ai đau cho phận đời trôi nổi. “Bất tri”-không biết được. Niềm tự thương kết tụ thành một lời thắc mắc lơ lửnggiữa không trung mà chẳng ai có thể giải đáp được vì thế tự đau đến cực độ.Ông muốn tìm thấy sự tri âm ở mai hậu bởi lẽ khi con người taco đơn, lạc lõng mới dễ trở nên yếu đuối,vô vọng.Nhà thơ khác khoải hoài vọng ở tương lai: đời sau trong muôn một còn có kẻ “khóc người đời xưa”bởi thời đại Nguyễn Du khổ đau,khát khao được giải tỏa nhưng vẫn bết tắc.Bế tắc nhưng vẫn không thôi hi vọng.Vì vậy, nỗi niềm Tố Như gửi tới mai hậu không phải là sự tuyệt vọng mà là niềm hi vọng được giải tỏa.

Tự thương mình là một nét mới mang tinh thần nhân bản cuả thời đại cuối thế kỉ thứ XVIII-đầu thế kỉ XIX-thời đại con người chưa ý thức được vè bản than, về tài năng, nỗi đau của chính mình.Sự tự thương mình là sự tự ý thức,là bằng nước mắt mà thấm in bản ngã của mình để chống lại sự chi phối của quan niệm “phi ngã”, “vô ngã”.

Bài thơ mở đầu bằng khóc người , thương người nay kết thúc bằng khóc mình, thương mình. Khóc người,thương người là sự mênh mang cao cả của trái tim nhân đạo. Khóc mình, thương mình là sự sâu sắc của tư tưởng nhân văn. Độc Tiểu Thanh kí đã hội nhập được cả hai điều đó .

Chỉ với tám câu thơ nhưng người đọc đã đủ cảm nhận được một tâm hồn tha thiết yêu cuộc sống, yêu con người của đại thi hào Nguyễn Du. Không cần đến 300 năm sau , hậu thế vẫn luôn nhớ đến ông, nhớ đến những vần thơ tràn đầy xúc cảm như thứ ánh sáng lấp lánh nổi bật lên kho tằng văn thơ trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung:

“Hỡi Người xưa của ta nay

Khúc vui xin lại so dây cùng Người.”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Nghệ thuật chân chính không nhất thiết là phải dùng những ngôn từ mĩ lệ , những đề tài mới chưa ai khám phá mà“Nghệ thuật là chỗ tìm ra cái phi thường trong cái bình thường và cái bình thường trong cái phi thường” . Muốn vậy kẻ làm thơ phải có năng khiếu, có vốn văn hóa rộng rãi, lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp, hơn hết là một cái tâm sáng ngời bởi lẽ “ thơ là tiếng lòng” ( Diệp Tiếp).

Qua tác phẩm văn chương, nhà thơ nhìn đời một cách cao đẹp, đầy giá trị nhân văn.Nhờ việc hiểu rõ về những thứ “tầm thường” , “phi thường” thi sĩ có cách đánh giá sâu sắc về cuộc đời. Từ cuộc đời Tiểu Thanh đầy rẫy nhưng đau khổ bất công, nhà thơ bày tỏ thái độ cảm thông, tiếc nuối , tiếc cho lẽ đời dâu bể:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những gì trông thấy mà đau đớn lòng”.

Chính cái tài thấu muôn đời muôn kiếp ấy đã đưa tên tuổi Nguyễn Du trở thành một nhà thơ hang đầu của nền văn học viết. Ấy thế mới thấy rõ được quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của thi sĩ gian nan biết chừng nào. Phải cảm ơn những nhà văn, nhà thơ như thế , người đời mới có thể hiểu rõ về mọi vật trong cuộc sống từ cơ bản, bao quát nhất đến chi tiết, nâng cao.

L.Tônxtôi khẳng định:”Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì 1 xã hội công bằng,bình đẳng bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn và viết,vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Nguyễn Du đã đem lòng thương cảm của mình để khóc cho người con gái xa lạ Tiểu Thanh, khóc cho một lớp người “phong vận kì oan”. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Du đã lưu dấu ấn của mình trong lòng bạn đọc để rồi nở hoa thành những lẽ sống đẹp, nhân nghĩa.


Bình giảng Đọc Tiểu Thanh kí - Bài mẫu 4

Đau đớn, xót thương cho mọi số kiếp khổ đau trong nhân gian là tình cảm lớn, xuyên suốt hầu hết sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du. Từ tập đại thành Truyện Kiều đến Văn tế thập loại chúng sinh, Phản Chiêu hồn, Sở hiến hành, Long Thành cầm giả ca, Độc Tiểu Thanh ki..., ở văn bản nào, chúng ta cũng.được chứng kiến nỗi niềm đau đáu khôn nguôi của người nghệ sĩ có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời (Mộng Liên Đường chủ nhân). Lo đời, thương người, nên suốt đời thơ Nguyễn Du là tiếng khóc nhân sinh đau đớn:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kỉ oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Có thể thấy ở hầu hết các sáng tác, Nguyễn Du luôn dành tiếng khóc lớn cho những người phụ nữ khốn khổ, những cô gái tài hoa bạc mệnh. Họ là Thuý Kiều, Đạm Tiên (Truyện Kiều), là người con gái đánh đàn ở đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), là người mẹ nghèo khổ của bầy con nheo nhóc (Sở kiến hành)... Với Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du lại thêm một lần nức nở vì người con gái mang tên Tiểu Thanh. Tiểu Thanh là cô gái sống ở đầu đời Minh (Trung Quốc), tên thật là Phùng Huyền Huyền. Nàng nổi tiếng tài hoa, xinh đẹp nhưng sớm phải đem than đi làm lẽ họ Phùng. Cuộc đời nàng mang nhiều bi kịch. Tiểu Thanh luôn bị người vợ cả của chồng ghen tị. Nàng bị bắt dọn ra núi Cô Sơn để ở. Tiểu Thanh mất khi mới mười tám tuổi. Mọi tư trang, thư tịch của nàng bị người vợ cả đốt hết để hả lòng ghen giận. Nhan đề Độc Tiểu Thanh kí có thể hiểu là đọc những ghi éhép về Tiểu Thanh hoặc đọc tiểu truyện về Tiểu Thanh sau đó ghi lại cảm xúc. Như vậy, có thể hiểu các ghi chép hay tiểu truyện ấy chính là nguyên cớ khiến nhà thơ của chúng ta đau đớn cất lên tiếng thơ ai động đất trời 

Đọc bài thơ, bất cứ ai cũng nhận thấy tiếng khóc Nguyễn Du trước hết hướng tới số phận bi kịch của nàng Tiểu Thanh với nỗi niềm cảm thương dào dạt:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Tây Hồ vốn là một cảnh đẹp thuộc tỉnh Chiết Giang - Trung Quốc, trước đây vốn là nơi huy hoàng, thịnh vượng (hiểu theo cách giải nghĩa cửa Từ hải từ nguyên về hai chữ hoa uyển). Câu thơ đầu thể hiện triêt lí, sự nhìn nhận khái quát về thời cuộc: sự suy tàn, đổ nát của thời đại (xưa là vườn hoa đẹp, nay thành gò hoang trơ trụi, tiêu điều, tang thương). Sự đổi thay của thiên nhiên, cảnh vật được diễn đạt triệt để thông qua từ tẫn. (nghĩa là hết, cùng), nó nhấn mạnh qui luật biến thiên dâu bể. Viết câu thơ này, chắc chắn Nguyễn Du không chỉ thổn thức trước vẻ đẹp của quá khứ bị tiêu tan, tàn lụi trước năm tháng thời gian.

Dường như nhà thơ còn ngầm ý muốn đặt bi kịch, số phận của người con gái trong mối quan hệ gắn kết với sự tàn lụi của thời đại. Điều này được triển khai cụ thể hơn ở các dòng tiếp theo:

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Tiếng khóc Nguyễn Du khởi phát từ nhất chỉ thư, (mảnh giấy). Mảnh giấy là vật chứng lưu kí bao tâm sự của một con người. “Mảnh giấy” khác với “quyển”. Mảnh giấy tàn trước cửa sổ ám chỉ số phận chóng tàn, mong manh, khái quát về số phận, giá trị tinh thần bị huỷ hoại, quên lãng, vùi dập, đương nhiên, trong đó có Tiểu Thánh, Người nghệ sĩ đa mang không khóc thương cho những cái trọn vẹn, đầy đặn mà lại xúc động trước cái mong manh, dở dang gắn liền với số phận của con người bạc mệnh. Điều đặc biệt là không có ai khóc cùng Nguyễn Du. Chữ độc đứng đầu dòng thơ nhấn mạnh tâm thế của tác giả - đó là tâm thế xót thương trong nỗi cô đơn. Chỉ riêng một mình nhà thơ thấm thìa về cuộc đời, thân phận mong manh của con người. Suy cho rộng, Tiểu Thanh chính là cái cớ để Nguyễn Du thể hiện triết lí của mình về “tài mệnh tương đô'” Nói như vậy cũng có nghĩa Nguyễn Du không chỉ khóc thương riêng người con gái họ Phùng mà còn khóc cho biết bao thân phận phụ nữ khác:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Truyện Kiều)

Nếu như dòng thơ đầu khái quát về sự hoang tàn, đổ nát của thời đại thì dòng thơ thứ hai nói lên thân phận của con người trong thời đại ấy. Đó chính là mối tương liên giữa số phận, cuộc đời người con gái này với cuộc biến thiên dâu bế. Từ qui luật mang tầm khái quát, lớn lao, Nguyễn Du đã đi vào trường hợp cụ thể là cuộc đời nàng:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh hướng tới hai giá trị cụ thể là chi phấn (son phấn) và văn chương biểu trưng cho vẻ đẹp hình sắc và cái đẹp tâm hồn. Điều này không khó lí giải bởi lẽ ai cũng biết Tiểu Thanh là người con gái có nhan sắc và hết sức tài hoa. Son phấn có thần nên vẫn phải ôm hận kể cả sau khi chết, văn chương không có thân mệnh cụ thể nhưng phải chịu sự hành hạ, phải mang lụy. Đó là cách chúng ta diễn giải để hiểu rõ hơn về hai dòng thơ này. Tiến sĩ Hán Nôm Hà Minh đã khái quát như sau: Son phấn là thân xác, nó phải chịu nỗi đau tinh thần sau khi chết, văn chương là tinh thần nhưng lại phải chịu nỗi đau thể xác. Như vậy, cái đẹp nói chung đều phải chịu sự chà đạp. Nỗi đau thể xác và bi kịch tinh thần được đồng nhất trong số phận oan nghiệt của một cuộc đời. Lời thơ đong đầy nỗi niềm tiếc thương, xót xa, đau đớn. Nhan sắc ấy, tài năng ấy có lẽ đâu lại phải chịu đựng, sự chà đạp phũ phàng nhường vậy? Phép đối dọc (chi phấn hữu thần - văn chương vô mệnh, liên tử hậu - lụy phần dư) càng khiến nỗi đau trở nên dai dẳng, mang ý nghĩa nhân loại. Nguyễn Du đã khóc cho bao nhiêu người con gái như Tiểu Thanh, đã nhỏ lệ cho bao nhiêu sô' phận cay đắng như nàng? Thật khó để kể cho hết. Nhưng có thể hiểu rằng, trước bất kì sự lụi tàn, đau đớn của một nhan sắc, một tài hoa - nghệ sĩ nào, nước mắt nhà thơ cũng tuôn rơi đầy xót thương và hết sức chân thành. Tiếng khóc Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh cũng chính là tiếng khóc nhà thơ dành cho những số kiếp “tài hoa bạc mệnh” như nàng. Sức khái quát của lời thơ, tình yêụ thương mênh mông Nguyễn Du dành cho những số kiếp ấy không chỉ dừng lại ở đó:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

Cổ kim hận sự là nỗi hờn về sự bất công của số phận. Nhà thơ nhận thức về qui luật tài hoa bạc mệnh, tài tử đa cùng, người có tài hoa, trí tuệ thì số phận long đong. Đó là nỗi bất công ngự trị từ xưa đến nay, là bi kịch đã được khái quát hoá, được đồng nhất. Mặt khác, chúng ta có thể nhận thấy từ cuộc đời của một người con gái, nhà thơ muốn hỏi cho rõ nguyên nhân gây nên bi kịch nói chung của thời đại chứ không riêng của dân tộc, thân phận cụ thể nào. Đến đây, có thể cảm nhận rất rõ rằng: tiếng khóc của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí không chỉ hướng tới cuộc đời, số phận cụ thể là nàng Tiểu Thanh mà còn hướng tới tất cả những người tài hoa, phong nhã, không phân biệt nam hay nữ (những kẻ phong vận).Tiếng khóc ấy không chỉ chan chứa yêu thương mà còn rất chân thành, xúc động bởi lẽ tác giả đã tự đặt mình vào thế giới của những kẻ phong vận kia. Điều đó chứng tỏ người nghệ sĩ của chúng ta ý thức rất rõ về bản thân mình, ông nhận mình cũng là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh: Tráng niên ngã diệc, vi tài tủ (Thời trẻ ta cũng là người có tài). Không phắi Nguyễn Du tự ngạo nhưng quả thật đúng như vậy. số phận của Nguyễn Du, Tiểu Thanh đều bất hạnh như nhau. Tự nhận là người cùng hội cùng thuyền cung có nghĩa là nhà thơ thừa nhận sự tri âm, đồng điệu giữa bản thân mình và người thiên cổ đã đạt đến mức độ tuyệt đối. Đó là sự tri âm, đồng điệu giữa những eon người tài hoa, bạc mệnh. Vậy nên tiếng khóc của Nguyễn Du không phải là tiếng khóc của đấng tu mi nam tử đoái thương cho số phận người đàn bà mà là tiếng khóc của người trong cuộc, của những người cùng một lứa bên trời lận đận (Long Thành cầm giả ca). Chưa ai trả lời cho Nguyễn Du được nguyên nhân của bi kịch đó để rồi khóc cho người thiên cổ, nhà thơ lại đoái thương cho chính bản thân mình:

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Từ hiện tại, Nguyễn Du khóc thương cho quá khứ, cho người trong quá khứ. Và bất chợt nhà thơ tự hỏi ba trăm năm sau sẽ ai khóc thương mình. Thương người, ngẫm bi kịch của người, khóc cho người rồi thương chính bản thần mình, điều đó cho thấy nhà thơ đã tự đặt mình vào số phận chung của những tấn bi kịch. Tiểu Thanh mệnh bạc nhưng ba trăm năm sau cũng có người cùng hội cùng thuyền là Nguyễn Du thương xót. Nỗi đau của nàng đã được xoa dịu một chút nơi chín suối. Nhưng liệu rằng điều đó có lặp lại với ông? Ba trăm năm chỉ là con số ước lệ. Tri âm, tri kỉ đâu cần đến ba trăm năm mới xuất hiện? Đọc thơ văn Nguyễn Du, cảm nhận sâu sắc tấm lòng vị than, đa mang của nhà thơ trước cuộc đời, trước con người, bất cứ ai chẳng đồng điệu, chẳng muốn tri âm với ông. Câu hỏi của Nguyễn Du hướng tới tương lai chứ không đặt câu hỏi cho hiện tại, có thể vì ông không tìm thấỳ sự đồng cảm trong hiện tại. Đó là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lí về thuyết tài mệnh tương đố. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình. Sẽ còn có những trái tim đa cảm như Nguyễn Du, sẽ còn những giọt nước mắt khóc cho những số phận cay đắng của người nghệ sĩ tài hoa mà mệnh bạc.

Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ xúc động. Người đọc được lắng nghe một tiếng khóc đầy đớn đau, nhức nhối, được chứng kiến một tấm lòng nhân đạo hết sức cao cả của người nghệ sĩ tài hoa đa truân. Nguyễn Du đâu chỉ khóc cho Tiểu Thanh, ông còn khóc cho bao sôố kiếp hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa cùng như nàng, khóc cho quá khứ, hiện tại, tương lai, và khóc cho chính bản thân mình. Trái tim người nghệ sĩ đa cảm này dường như cả cuộc đời chỉ biết đập cho người khác vậy.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Bình giảng Độc Tiểu Thanh kí do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 28/03/2022 - Cập nhật : 26/11/2022