logo

Top 5 bài Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn

Cảm nhận bài thơ Nhớ Rừng ngắn gọn của Thế Lữ, tác phẩm thể hiện tâm trạng chán ghét  của con hổ trong cảnh ngộ bị tù hãm ở vườn bách thú, qua đó thể hiện khát vọng về cuộc sống tự do, cao cả chân thật. Đó cũng là tâm trạng của thế hệ con ng­ười lúc bấy giờ. Cùng tham khảo ngay nhé!


Dàn ý Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn

Top 5 bài Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn

1. Mở bài

* Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

- Giới thiệu tác giả: Thế Lữ là một trong những cây bút nổi tiếng của phong trào Thơ mới.

- Giới thiệu tác phẩm: "Nhớ rừng" là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình.

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh ra đời:

- Được viết năm 1934.

- Được in trong tập "Mấy vần thơ" và được xuất bản năm 1935.

b. Tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú

- Tâm trạng phẫn uất của hổ: được thể hiện ở khổ thơ đầu tiên với các từ ngữ như "gậm một khối căm hờn", "khinh lũ người kia"...

- Hổ nhớ về thời vàng son, oanh liệt của mình: nhớ về nơi rừng thiêng với "bóng ngả cây già", với những khúc trường ca dữ dội của thiên nhiên cùng những khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, tráng lệ, nhiều ánh sáng, màu sắc, âm thanh.

- Hổ quay trở lại thực tại cùng những tiếng thở dài đầy ngao ngán: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu".

c. Đánh giá chung:

- Thể thơ tự do, hình ảnh thơ kỳ vĩ, tráng lệ → hình ảnh một chúa sơn lâm đầy ám ảnh trong lòng độc giả.

- Đặt thời gian sáng tác bài thơ vào hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ → bài thơ còn là tiếng nói, là khát vọng tự do của đông đảo quần chúng nhân dân giá trị nhân đạo cũng như tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ.

3. Kết bài

Cảm nhận về bài thơ.


Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn - Bài mẫu 1

     Thế Lữ được biết đến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam bao áng thơ đặc sắc. "Nhớ rừng" là một trong những tác phẩm như thế.

     Bài thơ được viết năm 1934, đến năm 1935 được in trong tập "Mấy vần thơ" và được xuất bản. Trong bài thơ, Thế Lữ đã mượn lời nhân vật chính là con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để nói lên sự tù túng, căm hờn khi bị kìm hãm tự do.

     Mở đầu bài thơ là nỗi căm hờn, phẫn uất đến cực độ của con hổ:

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua"

     Con hổ vốn luôn được mệnh danh là chúa sơn lâm vậy mà nay lại bị nhốt trong "cũi sắt". Nó đang bị mất tự do, bị kiểm soát bởi con người, không còn được tung hoành ngang dọc. "Khối căm hờn" là sự u uất, căm hận đến tột độ của con hổ, cách sử dụng "khối căm hờn" không chỉ gợi mức độ nặng nề của tâm trạng mà còn gợi cảm giác sự tù túng này đã tích tụ trong hổ từ rất lâu khiến nó muốn "gậm", muốn cắn nát, muốn nhai vụn sự uất ức trong lòng mình. Hoàn cảnh sống của hổ được gợi mở ngay từ câu thơ đầu tiên nối tiếp đó là tư thế "nằm dài" chẳng bao giờ có của một chúa sơn lâm nơi rừng xanh. Ấy vậy mà nay hổ phải sống trong cũi sắt, ngày qua ngày sống một cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt. Chính nó cũng phải tự thấy xót xa cho thân phận của mình:

"Nay xa cơ bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự"

     Hổ xót xa khi mình vốn là chúa sơn lâm tung hoành ngang dọc, nay lại bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một "trò lạ mắt", một "thứ đồ chơi" và đặc biệt còn phải chịu ngang hàng cùng với những con vật tầm thường khác. Hổ đã không còn là mình, không còn được sống cuộc sống của mình, nó đã đánh mất cái tôi kiêu ngạo, uy phong của mình để sống một cuộc đời nhàm chán. Đây là tâm trạng điển hình của bất kỳ ai bị rơi vào tình trạng kìm hãm sự tự do. Đặt thời gian ra đời bài thơ vào tình cảnh đất nước lúc bấy giờ, năm 1934 là năm đất nước đang chịu bao xiềng xích nô lệ ta càng thấy đồng điệu với tâm trạng đau khổ, tù túng của nhân dân ta trong cảnh bị đô hộ, kìm kẹp bởi thế lực thực dân.

     Từ hoàn cảnh sống đó, hổ nhớ về những năm tháng tung hoành của mình:

"Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa"

     Cuộc sống hiện tại phải tù túng, bức bách đến mức nào thì mới khiến hổ phải "sống mãi trong tình thương nỗi nhớ", phải mãi nhớ về những ngày tháng tự do của mình. Ngay sau đó, bức tranh về cảnh núi non bạt ngàn cùng bóng dáng của chúa sơn lâm được Thế Lữ miêu tả vô cùng sinh động:

"Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

     Các động từ mạnh "gào", "hét", "thét" đã thể hiện sự dự dỗi của thiên nhiên, núi rừng. Nhưng bức tranh đó dù có hùng tráng đến đâu cũng chỉ làm nền cho sự xuất hiện của hổ:

"Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Trong đêm tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi"

     Bằng giọng thơ đanh thép, Thế Lữ đã khắc hoạ lên một chúa sơn lâm bất khả xâm phạm với những bước chân mạnh mẽ, với tấm thân lượn lượn sóng cùng đôi mắt sáng quắc trong đêm tối. Tư thế oai hùng đó của hổ không chỉ khiến cho mọi vật đều phải sợ hãi mà chính nó cũng có thể tự hào về bản thân mình:

"Ta biết ta chúa tể của muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi"

     Sự khẳng định chắc chắn rằng mình là chúa tể muôn loài đã cho thấy sự tự tin cũng như bản lĩnh không ai có thể sánh bằng của hổ. Chính cuộc sống tự do, khí thế oai hùng đó càng khiến nó cảm thấy phẫn uất, tù túng với cuộc sống bị giam cầm kia. Và tất cả đã làm nên một khát khao tự do cháy bỏng trong hổ. Nó nhớ đến "những đêm vàng bên bờ suối", nhớ đến "những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn", nhớ đến những buổi bình minh rực rỡ ánh nắng, nhớ tiếng chim ra rộn rã khắp cánh rừng... Tất cả những điều đó không chỉ là nỗi nhớ, nó còn là nỗi đau của một chúa sơn lâm khi bị giam chân trong cũi sắt tù túng, ngột ngạt. Nhưng thiên nhiên có tươi đẹp đến mấy, dáng vẻ kia có oai hùng đến đâu cũng chỉ là một thời đã qua, để rồi giờ đây hổ phải thốt lên rằng: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?". Từ quá khứ vàng son, Thế Lữ khiến hổ giật mình nhìn lại hoàn cảnh bây giờ của mình. Câu thơ khiến người đọc không khỏi xót xa trước tình cảnh của hổ. Nỗi nhớ đó khiến hổ chỉ biết "ôm niềm uất hận ngàn thâu" trước những cảnh "không đời nào thay đổi" tẻ nhạt, vô vị. Hổ nhớ nơi "rừng thiêng ta từng ngự trị", nhớ "nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa". Bao nhiêu nỗi nhớ là bấy nhiêu uất hận kìm nén của hổ. Càng đọc ta càng thấy thương cho thân phận của một chúa sơn lâm. Càng ngẫm ta càng thấy nó giống với tình cảnh của nhân dân ta lúc bấy giờ.

     Người ta vẫn thường nói văn học phải bắt nguồn từ cuộc sống, phải phản ánh cuộc sống để từ văn học người đọc có thể nhìn thấy mọi sự ở đời. "Nhớ rừng" của Thế Lữ đã làm được điều ấy. Nhà thơ đã mượn lời của hổ để nói lên sự tù túng, ngột ngạt của chính mình cũng như của cả dân tộc Việt Nam trước bao xiềng xích nô lệ, trước tình cảnh khốn khổ cực cùng. Có thể nói, bằng thể thơ tự do cùng những hình ảnh thơ kì vĩ, tráng lệ, Thế Lữ đã xây dựng thành công hình ảnh một chúa sơn lâm đầy ám ảnh trong lòng độc giả.

     Người ta nói "Nhớ rừng" là khát vọng sống, khát vọng tự do quả không sai bởi bài thơ còn ẩn chứa trong đó khát vọng tự do của cả một dân tộc đồng thời nó cũng kín đáo thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.


Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn - Bài mẫu 2

     Bài thơ “Nhớ rừng” là một lời thơ của con hổ trong vườn bách thú, một đề tài vô cùng hấp dẫn, kịch tính. Hổ là một con vật được mệnh danh là chúa sơn lâm của rừng xanh. Ông chú sơn lâm của rừng xanh cảm thấy thấm thía việc mình bị bắt giam trong cũi, bị mất tự do là như thế nào.

     Bài thơ “Nhớ rừng” thể hiện một mối bi kịch vô cùng đau khổ của một con mãnh thú tự do phải cam chịu một mối căm hờn, khi năm dài trong một cũi sắt mất tự do. Trong lòng của chú hổ luôn cảm thấy căm hận khi mình bị mất tự do, chịu cảnh cay đắng. Bút pháp lãng mạn của bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ được tác giả viết lên với những nỗi buồn khi nhìn thế giới bên ngoài.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài cho ngày tháng dần trôi

     Từ “gậm” đã thể hiện được một sự buồn bã căm hờn của một chú hổ lòng tràn đầy mặc cảm khi bị mất tự do. Từng ngày chú hổ luôn cảm thấy vô cùng chán nản khi phải nhìn thế giới xung quanh bằng một ánh mắt u buồn, không được tự do tung tăng chạy nhảy, không còn được sống những ngày tháng vui vẻ nơi rừng xanh.

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

     Trong những câu thơ này con hổ có một trái tim đa sầu đa cảm như con người, luôn luôn khát khao một cuộc sống tự do. Trong đôi mặt của chú hổ cảm thấy mình đang bị coi thường bị tước đoạt đi tự do của mình. Trong trái tim chú hổ đều thể hiện một cuộc sống vô cùng căm hận những người xung quanh mình. Chú hổ mặc cảm với cảnh tù đày mất tự do của mình. Như một con người đang muốn vùng vẫy nhưng bị trói buộc chân tay không thể nào tự mình vùng vẫy với những ước mơ lớn của cuộc đời.

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

     Trong hai câu thơ tiếp theo của “Nhớ rừng” Thế Lữ đã thể hiện một mong muốn khát khao được bay cao bay xa của mình nhưng tất cả chỉ là ước mơ và khi bị sa cơ, bị tù đày con hổ cảm thấy đau khổ khi thấy mình mất đi thời oanh liệt. Con hổ biết lúc này mình chỉ là một thứ đồ chơi cho con người mà thôi không còn những ngày tháng tự do bay nhảy, thỏa sức vùng vẫy với trời xanh.

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

     Con hổ nhớ những ngày tháng vô cùng vui vẻ của mình với những ước mơ vô cùng tươi đẹp. Một thời vàng son được thỏa sức bay nhảy của mình. Trong ước mơ của con hổ luôn thể hiện một khát khao mạnh mẽ là được trở lại những ngày tháng trong rừng xanh. Con hổ là chúa sơn lâm được mọi người kính trọng yêu mến và nể phục.

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

     Trong câu thơ này của bài thơ “Nhớ rừng” thể hiện một sự tiếc nuối ngân vang. Một hình ảnh thiêng liêng của con hổ lúc sa cơ nó buồn giàu và cảm thấy bất lực khi mọi thứ xung quanh mình đang không còn như trước. Con hổ muốn làm gì đó để vùng vẫy và thoát được kiếp sống tù đày này nhưng không được. Trong bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ hình ảnh con hổ bị giam cầm tự như hình ảnh của đất nước Việt Nam chúng ta trong thời kỳ bị nô lệ mất tự do mất đi sự tự quyết của mình. Tất cả người dân đều mất đi sự những ngày tháng thong dong vui vẻ để chịu cẩn giam cầm trong một nhà giam lớn.

     Bài thơ “Nhớ rừng” có ý nghĩa như một lời kêu gọi thức tính lòng yêu nước tinh thần tự tôn dân tộc. Cả bài thơ chính là những lời lay động trái tim của con người luôn mang tới cho mỗi chúng ta một sức mạnh thôi thúc phải đứng lên để tìm lại tự do cho chính mình.


Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn - Bài mẫu 3

     Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn Bách thú, đề tài đầy kịch tính. Cảnh ngộ là một thân tù hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã hết thời đập phá hung dữ đòi tự do. Ông chúa đã thấm thía sự bất lực và ý thức được tình thế của mình, cam chịu cảnh gặm nhấm một mối căm hờn, nằm dài trông ngày tháng qua, mặc cho thân thế bị tụt xuống ngang cấp với các loài hèn kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói con hổ này đã được thuần hóa, chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài thôi, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sức diễn đạt phong phú của Thơ mới khi dựng lại khung cảnh kỳ vĩ trong mộng tưởng của chúa sơn lâm.

     Mối bi kịch thân ở nơi tù, hồn ở giang sơn cũ đã tạo nên chất men ngưỡng mộ đối với hoài niệm. Qua tâm linh của loài hổ, rừng núi hiện lên trong vẻ kỳ vĩ đắm say. Kỳ vĩ vì thâm nghiêm bóng cả cây già, kỳ vĩ vì dữ dội oai hùng với các từ gào, hét, thét, dữ dội; kỳ vĩ hoang vu bí ẩn: Hang tối, thảo hoa không tên tuổi, riêng phần bí mật.

     Trong cảnh núi rừng kỳ vĩ đó hiện lên hình ảnh oai linh của chúa sơn lâm. Trọng tâm của bức tranh rừng này là con hổ. Nhưng trước khi để hổ hiện ra, Thế Lữ đã dựng cảnh để gợi không khí oai hùng, kinh sợ. Vào đúng lúc tiếng gào thét của thiên nhiên đang ở đỉnh cao dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu tiên chỉ thấy bàn chân, một bước chân dõng dạc, đường hoàng. Câu thơ như đoạn phim cận cảnh quay chi tiết, thu hút sự chú ý của khán giả. Sau bàn chân là tấm thân, xuất hiện rất từ tốn nên càng oai hùng, to lớn. Chiều dài của tấm lưng trải ra theo câu thơ, một sự mềm mại tích chứa sức mạnh.

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

     Cách miêu tả từng động tác, lại là những động tác có chọn lựa của bàn chân, tấm thân và ánh mắt đã thể hiện được sự chế ngự của mãnh thú trước phông cảnh. Mấy câu thơ sau đã hoàn tất nốt bức chân dung chúa sơn lâm. Cái oai của chúa rừng còn chế ngự cả cảnh vật khi chúa đã đi qua khiến cho mọi vật đều im hơi. Câu nói kiêu hãnh của loài hổ không có gì quá đáng:

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

     Chỉ một đoạn thơ này đã đủ nói cái quá khứ oai hùng, giang sơn nhất khoảnh của chúa rừng. Thế Lữ còn dư sức bút, một đoạn nữa, cũng chủ ý ấy nhưng chi tiết lấy từ sinh hoạt của ác thú. Óc tưởng tượng của nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới thật phong phú, từ chi tiết thật của đời thú, ông đã dựng được chân dung tâm hồn của vị chúa tể. Có bốn cảnh: Đêm trăng – ngày mưa – sáng xanh – chiều đỏ. Bức tứ bình này (Thế Lữ cũng là hoạ sĩ đã từng học Cao đẳng mỹ thuật) ít chi tiết, nhưng nét đậm rõ, màu lên từng mảng lớn, trong cảnh có cả âm thanh khi tưng bừng tươi sáng, khi câm lặng bí ẩn. Bút pháp tả cảnh ở đây hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vẫn là tả tập tính của thú nhưng sức gợi của câu thơ rộng xa, giúp người đọc thấy cái hồn của cảnh và “tâm trạng” con thú.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

     Sự im lặng thiêng liêng có chút ghê rợn nhưng thật kỳ ảo quyến rũ: Bên suối trăng một mãnh thú uống nước, rình mồi. Tác giả nâng uy quyền của chúa rừng bằng cách để hắn đối diện với thiên nhiên, tạo hóa trong cả bốn bức tranh đó – đối diện với trăng, với mưa, với bình minh, với hoàng hôn. Và ở cả bốn khung cảnh, con hổ đều ở thế chế ngự – chú ý các động từ tả hoạt động của hổ trong bốn cảnh:

Say mồi đứng uống

Lặng ngắm giang sơn

Đợi mặt trời chết, để chiếm lấy

     Đẹp nhất, dữ dội, bi tráng nhất là cảnh hoàng hôn. Bức tranh rực rỡ trong gam đỏ: Đỏ của máu lênh láng, đỏ của mặt trời gay gắt. Tác giả dùng chữ mảnh để gọi mặt trời, tưởng như mặt trời cũng bé đi trong mắt nhìn loài hổ. Không khí chết chóc bao trùm, gợi lên do máu lênh láng, do giây phút hấp hối gay gắt của mặt trời. Chỉ ít phút nữa vũ trụ sẽ chết lặng, ngự trị trong bóng tối, chỉ còn có oai linh của hổ. Đấy là điểm cao trào nhất của quyền lực, gần như sự bất tử. Từ trên đỉnh cao huy hoàng của hồi tưởng, hổ đã sực tỉnh cái thân tù:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?.

     Lời than có sức lay động và ngân vang do sự tương phản ấy. Hùm thiêng khi đã sa cơ. Bản thân sự hồi tưởng này đã cụ thể hóa cảnh ngộ của câu thơ: Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt. Mỗi lần hồi tưởng là một lần ý thức thêm sự bất lực, là một lần gặm nhấm thất bại.

     Nhiều người đã bình luận có lý về ý nghĩa xã hội của bài thơ: Hổ trong cũi sắt nhớ tự do là biểu tượng cho tình cảm của người dân Việt mất nước. Bài thơ có ý nghĩa thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí tự tôn dân tộc một cách kín đáo. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy ý nghĩa đó, chúng ta chưa thấy hết bài thơ và cũng rất nên đề phòng trường hợp khi đi vào ý nghĩa xã hội, ta dễ sa vào bình tán mà tách dần khỏi hình tượng thẩm mỹ vốn có của bài thơ. Đoạn cuối bài thơ không xuất sắc bằng các đoạn trên, nhưng lại bộc lộ rõ khuynh hướng tư tưởng của bài thơ qua tâm sự chúa sơn lâm:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi

Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối

Hoa chăm, cỏ xén; lối phẳng, cây trồng

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém

Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

     Niềm uất hận đương nhiên là vì tù túng, nhưng cái uất nhất do sự tù túng gây nên là phải chấp nhận cái tầm thường. Hổ nhớ rừng không chỉ là nhớ tự do mà còn là, theo tôi lại là chủ yếu nếu căn cứ theo văn bản của bài thơ, nhớ cái cao cả, cái chân thực, cái tự nhiên. Tới đây, chúng ta gặp thuộc tính của chủ nghĩa lãng mạn: Buồn tẻ, đơn điệu, bé nhỏ trong tầm tay trần tục của con người: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng. Xuân Diệu thuở ấy từng mơ ước:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

     Đây không phải là chỗ để luận cái đúng sai của nhân sinh quan này, chỉ xin nói tới nó như một đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Thế Lữ cũng thường say đắm những cảnh siêu phàm, những tương phản rất xa nhau của thiên nhiên:

Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác đổ

Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay.

     Thơ Thế Lữ, do vậy, nhiều lần đắm vào cảnh tiên. Niềm khát khao của con hổ nhớ rừng là khát khao trở về với cái kỳ vĩ, siêu phàm, không chung sống được với cái tầm thường, thấp kém giả tạo. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân cách, tuy rằng mang nỗi-khát khao ấy trong mình là đã mang niềm thất vọng, vì cái phi thường của các nhà lãng mạn cũng là cái phi thực. Vả lại, siêu phàm cũng dễ đồng nghĩa với cô đơn.

     Nỗi lòng của Hi mã lạp sơn trong thơ Xuân Diệu cũng là nỗi lòng con hổ trong cũi sắt của Thế Lữ, nó thuộc về bản chất của chủ nghĩa lãng mạn. Quá nhấn mạnh, đến chỉ thấy ý nghĩa xã hội, e làm hẹp đi chất nhân bản của bài thơ và cũng làm mờ đi qui luật thẩm mỹ của chủ nghĩa lãng mạn. Còn một lý do nhỏ nữa: Tự do của con hổ là tự do của một ông chúa, ta biết ta là chúa tể của muôn loài, khát khao tự do của hổ, qua một hình tượng của bài, là khát khao ngự trị, khát khao tước đoạt tự do của kẻ khác. Cho nên coi hổ trong cũi là thân phận của dân tộc ta e có chỗ khó giải thích khi nói tới tính thống nhất của hình tượng.

     Nhớ rừng” là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào ‘Thơ mới”. Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ “Nhớ rừng” đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỉ qua.

     Con hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. Nó đang nằm trong cũi sắt vườn Bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vô cùng cay đắng uất hận “gậm một khối căm hờn”, muốn cắn nát, muốn nhai vụn mọi uất ức căm hờn đã tích tụ, đã chứa chất thành “một khối” trong lòng bấy lâu nay. Không căm hờn sao được khi phải “nằm dài trông ngày tháng dần qua” trong cũi sắt? Không uất ức, cay đắng sao được khi chúa sơn lâm “oai linh rừng núi” đang bị lũ người ”giương mắt bé giễu”, đang trở thành “thứ đồ chơi”, với cặp báo “vô tư lự’ trong vườn Bách thảo? Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cay đắng, căm hờn của con hổ mất tự do đầy ám ảnh:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

     Qua đó, ta càng thấy rõ: “Anh hùng thất thế sa cơ cũng hèn” (Truyện Kiều)’, ta càng thấm thìa: “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng – cay đắng chi bằng mất tự do” (Nhật kí trong tù).

     Năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng. Nhớ “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”, nhớ vương quốc “miền đất thiêng” mà “ta” ngự trị:

“Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”

     Nhớ tư thế cao sang, oai hùng của “ta”. Một cái bước chân. Một tấm thân lượn sóng. Một cái vờn bóng… Tất cả đều “dõng dạc, đường hoàng”. Một chữ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh tự hào của chúa sơn lâm:

     “Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc”.

     Quyền uy của “ta” là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải “im hơi” khi “mắt thần” của ta “đã quắc’.”Ta biết” giữa chốn thảo hoa, “ta chúa tể cả muôn loài”:

“Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi”.

     Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.

     Hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời oanh liệt. Cảnh vật tráng lệ. Nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

......

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?“

     Các luyến láy, điệp ngữ: “đâu những đêm vàng…”, “đâu những ngày mưa…”, “đâu những bình minh…”, “đâu những chiều…”, “nay còn đâu” xuất hiện nối tiếp trong năm câu hỏi tu từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt nay đã trở thành hoài niệm, quá vãng. Chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng. Nhớ cảnh giang san trong màn mưa rừng. Nhớ “cây xanh nắng gội”. Nhớ chim hót tưng bừng lúc bình minh. Nhớ mặt trời gay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn. Nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buồn bị tước đoạt mất tự do, cũng là nỗi khát khao tự do. Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần 1 thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ rừng của hùm thiêng sa cơ… Một tiếng than như xiết lấy lòng người, khêu gợi và lay tỉnh:

“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?“

     Bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất hận biết đến bao giờ có thể nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu”.

     Hổ “nhớ cánh sơn lâm, bóng cả, cây già” rồi “uất hận” căm ghét những cảnh “không đời nào thay đổi”, tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa “tầm thường giả dối”, nhỏ bé:

     “Hoa chăm, cỏ xén, lối thẳng, cây trồng; Dài nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém”. Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do “lũ người kia ngạo mạn” bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi “cảnh nước non hùng vĩ’. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:

“Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”.

     Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo “giấc mộng ngàn”. Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:

“Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

     “Nhớ rừng” là một trong mười bài thơ hay nhất của “Thơ mới” (1932-1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kì vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc “nhớ rừng” dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.

     Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận… của con hổ nhớ rừng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong xích xiềng nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ mang hàm nghĩa như một lời nhắn gửi kín đáo, tha thiết về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là cái giá của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.


Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn - Bài mẫu 4

     Thế Lữ đã kí thác vào hình tượng con hổ bị cầm tù trong cũi sắt giữa vườn bách thú vẫn ôm trong lòng “niềm uất hận ngàn thu” vẫn “dương theo giấc mộng ngàn to lớn” – cái nỗi niềm của cả thế hệ mình, thời đại mình: mối bất hòa với thực tại. Họ sống trên quê hương mà luôn cảm thấy thiếu quê hương, sống trong hiện tại mà chỉ muốn thoát li khỏi hiện tại. “Gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” mà đau đáu một nỗi nhớ rừng, tâm trạng của con hổ cũng chính là tâm trạng của họ, thực tại là cũi sắt, quá khứ là rừng già, mơ ước là rừng già. Mà con hổ ấy đã gọi thật trang trọng “nước non hùng vĩ!” Đối với Chúa Sơn Lâm rừng là tất cả, nhớ rừng là tiếc tự do. Nhớ rừng là nhớ tiếc thời oanh liệt… Tất cả xuất phát từ phản ứng dữ dội với thực tại cầm tù, trói buộc: thực tại tầm thường giả dối, thực tại vô vị, vô tích sự… Toàn bộ cuộc đời của mình là ở nơi rừng…

     Ai chẳng có một thời oanh liệt của riêng mình! Nó là đoạn đời huy hoàng chói lọi, là quãng đời ý nghĩa nhất cùa cuộc đời mình! Vì thế bất cứ người nào trong cuộc đời này, nếu là người luôn khao khát sống thì rồi cũng sẽ có lúc ngấm nỗi sầu hận, sầu thất thế để rồi cất lên cái tiếng sầu than u uất kia của Chúa Sơn Lâm.

     … Thi sĩ đã tạo ra sự tương phản nhất quán nhuần nhuyễn giữa cái phi thường và cái tầm thường. Chúa Sơn Lâm được đặt ở trung tâm bức tranh và tất cả đều được nhìn qua mắt của loài mãnh thú này, vì thế mà tất cả đều trở nên tầm thường. Đối diện với hổ, con người cũng chi là lủ người ngạo mạn, ngẩn ngơ với mắt lé, dám giễu oai linh rừng thẳm, bọn gấu thì dở hơi, cặp báo chỉ loại ươn hèn nô lệ, hời hợi vô tư lự.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội.

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng hừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

     Đây là đoạn tuyệt bút nhất của “Nhớ rừng”… Bốn bức tranh là nỗi hoài niệm tiếc nuối, uất hận, bốn câu hỏi mà giọng điệu ngày một tăng tiến dữ dội. Mà đáng kể nhất là bức tranh thứ nhất và bức thứ tư. Chữ “nào đâu…” là một lời than tiếc nuối ngậm ngùi, hợp với không khí thi vị của những đêm vàng bên bờ suối và hợp với dáng điệu say mồi và vẫn rất hào hoa nghệ sĩ: “ta say mồi đứng ngắm ánh trắng tan”. Đến chữ “đâu” giọng điệu khác hẳn. Không còn là than thở mà đã là lời chất vấn quá khứ, lời chất vấn dữ dội oai linh.

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

     Đây là hình ảnh oai hùng, lẫm liệt tạo nên dáng điệu hào hùng cua bạo chúa. Mấy chữ “lênh láng máu” thật dễ sợ. Nó gợi ra cảnh chiến trường sau cuộc vật lộn tàn bạo đó là máu của mặt trời, ánh tà dương lúc hấp hối, qua cảm nhận của con mảnh thú… Trong vũ trụ này, chi có một kẻ duy nhất được Chúa Sơn lâm xom là kì phùng địch thủ: vầng thái dương…

     Sự phù hợp tuyệt vời giữa đối tượng mô tả và nghệ thuật mô tả đã chấp cánh cho thơ Thế Lữ bay lên dõng dạc, đường hoàng như một khúc tráng ca dữ dội.

     (Giảng văn Vãn học Việt Nam – Chu Văn Sơn) : “Về mặt hình thức cái mới trong bài thơ trước hết thể hiện qua thế thơ tự do, mỗi câu tám chừ, gieo vần liền, vần bằng, còn sử dụng cách ngắt nhịp linh hoạt khi ngắn, khi dài, khi nhanh, khi chậm, khi dàn trải, có hiện tượng ngắt dòng giừa các dòng thơ. Ngôn ngữ thơ nhiều sáng tạo, phong phú, sinh động, giàu chất biểu cám và trữ tình. Trong bài sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc như so sánh, ấn dụ, nhân hóa, hoán dụ, điệp ngừ, câu hỏi tu từ… Tất cả góp phần làm cho bài thơ vừa giàu tính nhạc vừa giàu tính họa. Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, mạch thơ cuồn cuộn, cảm xúc ào ạt tuôn trào dưới ngòi bút của nhà thơ.


Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn - Bài mẫu 5

     Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn "lời con hổ ở vườn bách thú"? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: Tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hoá thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện.

     Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: Một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự "không đổi thay" của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: Một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: Nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc vua chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: Chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ chênh và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất không nguôi chạy đọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.

     Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hoà, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị "sa cơ", lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: Vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là "ngang bầy", là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, vói bọn "gấu dở hơi". Ý thức về sự không thể "ngang bầy" nay đang phải chịu "ngang bầy" tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

     Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phái nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm, nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức công với bất lực buồng xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chối tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: Những thanh bằng buông xuôi, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của niềm đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói đến loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.

     Mà sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Cái lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là "trò lạ mắt, thứ đồ chơi". Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự đổi thay vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự "học đòi bắt chước vẻ hoang vu", nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém…

     Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn tả sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.

     Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực đồng khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: "Nơi ta không còn được thấy bao giờ", "Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa". Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng – nguồn cội của niềm tự hào khi "hầm thiêng" đang là bá chủ.

vPhủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: Trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao, cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát "một khối căm hờn" không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: Cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc hoạ, làm nổi bật chủ thế trữ tình là nhân vật tự gọi là "ta" nhưng thực chất là "cái tôi" bừng thức, "cái tôi" trung tâm của một "thời oanh liệt". Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với "bóng cả, cây già", khi thì bóng tối âm thầm với "lá gai cỏ sắc", cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu "Ta biết ta chúa tể cả muôn loài". Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

     Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: "Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ". Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho "tình thương nỗi nhớ" ấy dài ra:

Nhớ cành sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

     Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thất nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những chữ "đâu" như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…

Đâu những bình minh…

     Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.

---/---

Trên đây là Top 5 bài Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 21/03/2021 - Cập nhật : 21/03/2021