logo

Phân tích Thu Vịnh

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích Thu Vịnh. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Phân tích Thu Vịnh- Bài văn mẫu số 1

   Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình.

   Nguyễn Khuỵến nổi tiếng với chùm thơ ba bài viết về mùa thu Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Có lẽ Nguyễn Khuyến đã viết theo lối “chùm ba” của Đỗ Phủ - đại thi hào Trung Quốc này nổi tiếng với “Tam biệt”, “Tam lại”...). Theo nhận xét của Xuân Diệu thì trong ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyên, bài thơ Thu vịnh mang cái hồn cua cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Thu vịnh mang cái thần của cảnh mùa thu xứ Bắc và cả tâm sự u uấn của thi nhân:

       Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

        Nước biếc trông như tảng khói phủ,

       Song thưa để mặc bóng trăng vào

         Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

           Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

      Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

   Bức tranh vẽ mùa thu được tác giả phác họa với không gian thoáng đãng. Nến trời chấm phá một nét nhẹ, mềm của cảnh trúc:

         Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

   Mùa thu của xứ Bắc có bầu trời cao xanh trong đã hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến là “trời thu xanh ngắt”. Màu sắc ấy là màu của trời thu mà cũng là cái tình tha thiết của thi nhân đối với mùa thu, đối với quê hương lang cảnh. Không gian mở ra thăm thẳm “mấy tầng cao”, một cần trúc (trúc chứ không phải là tre) vươn lên trên nền trời thu “xanh ngắt”. Nét cong mềm của “cần trúc” vươn lên một cách thanh cao, không ủy mị như rặng liễu đìu hiu buông xuống trong thơ mùa thu của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” gợi tả vẻ thưa thớt của những lá trúc lay động bởi gió heo may mùa thu. Từ láy "hát hiu” gợi được sự rung động của cành trúc, hay là sự rung động của tâm hồn thi nhân trước cảnh thu, trời thu đượm buồn?

   Bức tranh mùa thu trong Thu vịnh cứ được thêm hòa sắc mới, đường nét, hình ảnh mới:

  Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào

   Hình ảnh mùa thu được pha thêm màu “nước biếc", thêm một sắc xanh tha thiết nữa, màu của áo thu trong xanh, với “khói phủ” nhạt nhòa. “Khói” dãy gợi nhứ “khói sóng" trong thơ Thối Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai . Cảnh đêm thu thật là huyền diệu. Lại thêm có trăng. Thi nhân mở ra đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào". Trong đêm thu thanh tĩnh, trăng là người bạn tri kỉ của thi nhân. Có ánh trăng thu, bức tranh mùa thu trong thơ thêm sáng. Mọi vật trong đêm thu được pha thêm ánh trăng huyền ảo, mộng mơ.

   Cảnh thu thêm huyền hoặc, từ màu hoa cho đến tiếng chim:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

  Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

   Hoa mùa thu không đổi, không có sắc màu vì khói phủ nhạt nhòa hay nhà thơ mất hết ý niệm về thời gian? “Mấy chùm trước giậu" làm sao biết được đó là hoa gì, màu sắc như thế nào. Chỉ biết đó là “hoa năm ngoái”. Tứ thơ của Nguyễn Khuyến còn trừu tượng hơn, ở đây chẳng có hoa đào, hoa cúc gì cả. Hình ảnh “hoa năm ngoái” thể hiện thời gian ngưng đọng, tâm trạng bất biến của thi nhân. Câu thơ thể hiện một nỗi buồn man mác. Âm thanh mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ “ngỗng nước nào”. Tiếng ngỗng trời lạnh cả không gian mùa thu đã làm thổn thức nỗi lòng của thi nhân.

   Đêm thu huyền diệu dã gợi cảm hứng cho nhà thơ. Thi hứng cũng chợt đến trong nỗi niềm u uẩn của thi nhân:

      Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

   Trước cảnh thu huyền diệu, nhà thơ đã bộc lộ trực tiếp nỗi lòng của mình. Theo quan điểm của Nguyễn Khuyến mà cũng là quan điểm của các nhà thơ chân chính, thơ gắn liền với nhân cách, nhân cách lớn thì thơ lớn.

   Rung động trước mùa thu, cất bút định làm thơ, Nguyễn Khuyến cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào ở đây tức là Đào Tiềm (Đào Uyên Minh), một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thời Lục Triều. Ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, rồi chán ghét cảnh quan trường thối nát đã treo ấn từ quan, lui về ẩn dật và có bài Qui khứ lai từ rất nổi tiếng. Sao cụ Nguyễn lại “thẹn” với ông Đào? Thái độ này chưa từng thấy đối với các thi nhân cổ kim. về khoa bảng, ông Đào đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn cũng đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn lại còn có Tam Nguyên, người đời gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Về tài học, thơ của Nguyễn Khuyến kém gì thơ Đào Uyên Minh? Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ cổ điển lớn nhất của nước nhà được Xuân Diệu phong là “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam" và hết lời ngợi ca. Có lẽ cụ Nguyễn “thẹn với ông Đào'' là về khí tiết. Cụ Nguyễn thiếu cái dũng khí của ông Đào, người đã tư quan một cách dứt khoát, trở thành một nhân vật lừng danh về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa. Còn Nguyễn Khuyến thì lúng túng khi ra làm quan (thời đó ra làm quan tránh sao khỏi là tay sai của giặc Pháp) và lừng khừng khi đồng cảm của người đời. Đã về ẩn dật rồi, cụ Nguyễn vẫn còn chưa nguôi ân hận về những năm tham gia guồng máy chính quyền thối nát tàn bạo thời bấy giờ. Câu thơ của một tấm lòng chân thực là nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn, của một nhà thơ lớn.

   Thu vịnh là một bài thơ hay viết về mùa thu cua Nguyễn Khuyến. Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng, cảnh  vật huyền ảo dưới ánh nắng trắng trong thể hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Nhân vẻ đẹp của đêm thu. Nhà thơ cũng bộc bạch tâm sự sâu kín, chân thật của mình hết sức cảm động.

   Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình.


Phân tích Thu Vịnh- Bài văn mẫu số 2

   Mùa thu từ xưa tới nay luôn là nguồn cảm hứng dồi dào trong các tác phẩm thi ca nhạc họa, bởi mùa thu mang một cái vẻ đẹp tinh tế, uyển chuyển, có lúc mơ màng, có lúc lại buồn man mác, khơi gợi nên nhiều cảm xúc vi diệu trong tâm tưởng con người. Và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ, với chùm thơ về mùa thu rất nổi tiếng ấy là Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm, nói về ba thú vui nhân mùa thu tới. Trong đó Thu vịnh được xem là bài thơ mang nhiều nét thi vị đậm đà về cảnh sắc mùa thu nơi làng quê, thôn dã đầy giản dị và hồn hậu.

   Thu vịnh có nghĩa là ngâm vịnh, ca tụng về mùa thu, tuy có một số quan niệm cho rằng nên hiểu là tác giả đang trầm ngâm ngắm mùa thu mà làm thơ nhưng nếu như thế thì chưa chính xác lắm. Cả bài là những vần thơ bay bổng, mới nghe mới đọc thì tưởng chừng chỉ đơn giản là tả về mùa thu, nhưng nếu đọc mà trầm ngâm thêm chút nữa mới biết nó cũng chứa nhiều nỗi niềm tâm sự của một con người yêu nước, thương dân.

   Mở ra cảnh sắc mùa thu là hai câu thơ:

"Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."

   Khung cảnh mùa thu hiện ra thật trong trẻo, khoáng đạt với hình ảnh bầu trời mang một màu mây xanh ngắt, cao vời vợi, tô điểm cho khung cảnh trống trải ấy, thi nhân vẽ vào một cần trúc "lơ phơ", mềm mại, uyển chuyển trong cái gió se se lạnh "hắt hiu". "Trời thu xanh ngắt" như chính thứ tình cảm sâu đậm của nhà thơ dành cho mùa thu nơi quê hương, một mùa thu của xứ Bắc, với nét riêng biệt ấy là "cần trúc lơ phơ" vẫn mang chút mềm mại, nhưng lại chẳng yếu đuối, lả lướt như liễu. Giọng thơ chậm rãi nhẹ nhàng, vương một chút buồn man mác nơi hai chữ "hắt hiu", phải chăng thi nhân có điều chi phiền lòng?

"Nước biếc trông như tảng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào"

   Trên đã có "trời xanh" dưới lại có "nước biếc", cả hai thứ ấy đều mang một màu xanh trong trẻo, dịu dàng, liệu còn có phong cảnh nào xinh đẹp hơn thế nữa? Đôi khi người đọc vì không nắm rõ nghệ thuật "đảo trang" trong thơ ca(nghệ thuật đổi âm vận sao cho câu thơ được vần) mà thường hiểu lầm hoặc hiểu không rõ nghĩa của câu thơ này. Ở đây, ý thơ có nghĩa là làn sương tựa như khói đang là đà phủ trên mặt nước biếc. Chữ "biếc" ở đây không hẳn là nước có màu ấy thật, mà cũng có khi nhà thơ tưởng tượng ra rồi viết vào cho bay bổng lại tiệp vần với nhau. Tương tự, ở câu dưới chữ "thưa" cũng được đưa vào nhằm mục đích này. Ta chợt nhận ra cảnh mùa thu trong bài được tác giả tinh tế lướt qua hai khoảng thời gian sáng và tối, ban ngày thì thấy trời xanh, nước biếc, ban đêm thì lại ngó thấy cảnh ánh trăng vàng, dịu nhẹ len lỏi từng song cửa. Trăng với mùa thu là hai thực thể rất hay song hành cùng nhau trong những bài thơ, bài văn nói về mùa thu và hơn thế nữa trăng còn là người bạn tri kỷ của thi nhân, đêm khuya thanh vắng, thi nhân chẳng có ai bầu bạn, đành làm bạn với trăng sáng, âu ngắm trăng làm thơ cũng là một thú vui tao nhã. Và cũng nhờ có ánh trăng này mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến có thêm chút gì đó mộng mơ, lãng mạn hơn cũng vừa thanh tao, nhã nhặn.

"Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?"

   Cụm từ "hoa năm ngoái" có lẽ chúng ta không nên hiểu là hoa đã nở từ năm ngoái mà đây hẳn là tâm trạng của tác giả đang hoài niệm quá khứ, một cái quá khứ nào đó còn kéo dài trong tâm hồn của thi nhân đến ngày hôm nay, mang đến trong điệu thơ những nỗi u hoài, trầm buồn của tác giả. Hẳn rằng ấy là một ký ức ngọt ngào tựa như những đóa hoa trước giậu, khiến tác giả bỗng ngậm ngùi khi nhớ về. Trong cái không gian vốn trầm tĩnh, lắng đọng ấy bỗng nhiên bị xáo động bởi tiếng ngỗng trời, làm bừng tỉnh tâm hồn người thi sĩ, bừng tỉnh cả không gian mùa thu vốn thanh bình yên ắng, đem lại chút âm điệu đơn bạc, giải đi nỗi vắng lặng, tịch liêu.

   ở hai câu thơ cuối tâm trạng cảu nhà thơ được bộc lộ rõ hơn:

"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"

   Giữa khung cảnh trời thu đẹp và lãng mạn đến thế, thử hỏi liệu có thi nhân nào không rung động, vừa nhìn là muốn động bút làm một mạch mấy bài thơ, bài vịnh cho thỏa hứng. Nhưng chợt Nguyễn Khuyến xuất hiện một suy nghĩ rất lạ "thẹn với ông Đào", "Đào" ở đây là Đào Tiềm (tên khác là Đào Uyên Minh), vốn là một nhà thơ nhà thơ rất nổi tiếng thời Lục Triều (Trung Quốc), ông là người tài giỏi, từng đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, nhưng chán ghét chốn quan trường bẩn thỉu, nhũng nhiễu mà lui về ở ẩn. Vậy cớ gì mà Nguyễn Khuyến "thẹn", khi mà tính ra ông cũng chẳng thua kém gì về học thức và tài năng. Câu trả lời ấy là Nguyễn Khuyến thấy hổ thẹn khi thua ở cái khí tiết của một bậc quân tử phải có, Đào Tiềm sẵn sàng từ quan khi chán ghét, cũng chẳng màng đến thế sự, cứ ung dung làm thơ, sống thanh tao ẩn dật. Còn Nguyễn Khuyến ông, lại vẫn không thể từ bỏ công danh mà ra làm quan dưới thời Pháp thuộc, khi từ quan rồi cũng chẳng thôi được cái mối ân hận khi làm quan buổi rối ren, đầy nhục nhã, ấy chính là căn nguyên của chữ "thẹn" nơi cuối bài. Nhưng cũng chính những câu thơ tỏ lòng như thế ta mới thấy được một nhân cách cao cả, một tấm lòng đầy chân thành của người quân tử, không trốn tránh sự thật mà sẵn sàng thừa nhận, nhận để biết mà không thôi tự vấn và tha thứ cho lỗi lầm xưa cũ, người như thế thật đáng trân trọng biết bao.

   Thu vịnh là bài thơ hay và đặc sắc, có mùi vị mùa thu miền quê Việt Nam thật rõ ràng và chân thực. Những câu thơ với nhịp điệu chậm rãi, mang chút suy tư, có chỗ hơi lạ lùng và khó hiểu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về một mùa thu trong tâm hồn người thi sĩ. Đặc biệt qua những câu thơ bộc bạch ấy ta còn thấu hiểu hơn về nỗi lòng của tác giả, nỗi hổ thẹn cũng là niềm yêu nước, thương dân ẩn sâu trong tâm hồn của nhà thơ.


Phân tích Thu Vịnh- Bài văn mẫu số 3

   Thu vịnh của Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa bức tranh mùa thu thôn dã đẹp bình dị, mộc mạc mà gần gũi, qua đó còn thể hiện cái tâm của người thi sĩ yêu làng quê

   Nhắc tới Nguyễn Khuyến người ta nhớ đến những sáng tác của ông về mùa thu. Trong đó có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm.Bài thơ “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chính chùm thơ về mùa thu này đã giúp Nguyễn Khuyến bước lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu. Những câu thơ nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, sẽ không ai có thể quên, khi nhắc tới thơ về mùa thu Việt Nam, Thu Vịnh như là một trong 3 bài thơ đặc sản của thơ văn viết về mùa thu.

Phân tích Thu Vịnh ngắn gọn, hay nhất

 

   Mọi cảnh vật quen thuộc hiện ra , vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, ngập nước với ao hồ, bờ tre bao bọc-một biểu tượng quen thuộc của làng quê Việt Nam. Mở đầu bài thơ Thu vịnh là một hình ảnh đầy quen thuộc như thế:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

   Hình ảnh ấn tượng nhất của mùa thu có lẽ là bầu trời, đó là màu xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la là hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Gió không mạnh không ồ ạt không mang cái nóng như mùa hè, cũng không ảm đạm như gió mùa đông, mà nhẹ nhàng hắt hiu, đúng chất của một ngọn gió mùa thu, chứa đựng nhiều tâm trạng ẩn trong đó. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc ngày càng làm tăng thêm cái tĩnh lặng , sâu thẳm của bầu trời. Hình ảnh bầu trời thu và cần trúc tạo nên mối liên hệ chặt chẽ, động làm nổi bật tĩnh,mọi thứ như hòa quyện với nhau.

   Không dừng lại ở nét chấm phá ở hai câu đề, với cảnh vật hòa quyện với nhau, hai câu luận lại miêu tả cảnh vật thật như chốn bồng lai, có lấp ló bóng trăng:

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

   Màu nước biếc là màu nước đặc trưng của dòng nước vào thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Thu chính là thời khắc giao mùa giữa mùa hè và mùa đông cho nên, vừa có gió se,vừa có sương mỏng vờn trên mặt nước. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt tinh tế và tâm hồn thi sĩ nhạy cảm đã trở nên yểu điệu có hồn. Lớp sương ấy như một dày thêm, không phải phảng phất nữa mà là như tầng khói phủ. Nước biếc có tầng khói phủ cho nên màu nước không còn biếc nữa mà hoá mông lung, huyền ảo. Đó là tiết thu dưới mặt đất, nét đặc trưng nhất.

   Hình ảnh “song thưa “ để mặc bóng trăng vào gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ cho nên bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Không gian không được mở ra theo chiều cao mà còn mở ra vẻ mênh mông bao la theo chiều rộng, nhưng mọi thứ đều tĩnh lặng và u tịch

   Vẫn với tâm trạng tĩnh lặng, có chút gợn buồn chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến, cho nên khung cảnh thu được tiếp tục chấm phá với những ngôn từ:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào ?

   Vẫn với những hình ảnh quen thuộc, sau mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân, ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Nếu như cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan,thì cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Tại sao tác giả lại thấy giậu hoa lại là hoa năm ngoái. Điều gì đang xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà tâm trí như lùi về quá khử hay bóng dáng quá khứ đang trùm lấy hiện thực. Câu hỏi tu từ xuất hiện, hay chính là nỗi băn khoăn của tác giả.

   Cảnh trời đất vào thu,với khung cảnh trời cao, nước xanh biếc khói phủ rồi những âm thanh quen thuộc,nhưng khung cảnh ấy đang hòa vào một nỗi niềm u uất thể hiện sâu trong tâm tư con người tác giả. Trước khung cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cất bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

   Nhắc tới ông Đào, nhà thơ thấy thẹn? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Việc sử dụng điển tích điển cố ở đây tạo nên ý tứ sâu xa của tác và càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Mọi cảnh vật mùa thu xuất hiện theo chiều cao và cả chiều rộng, những hình ảnh quen thuộc và cả những nét đặc trưng của mùa thu nữa nhưng đều phảng phất tâm trạng xót xa tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà bản thân mình thì lực bất tòng tâm.

   Thu vịnh là một trong số bài thơ hay, khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Hồn thơ phóng khoáng, chỉ với những hình ảnh quen thuộc,vài nét chấm phá, bài thơ chỉ với 8 câu mà như vẽ ra bao viễn cảnh tươi đẹp. Sự tinh tế trong dùng từ để vịnh mùa thu cũng đạt tới mức điêu luyện tinh tế.

---/---

   Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích Thu Vịnh do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 09/11/2021 - Cập nhật : 19/11/2021