logo

Phân tích đoạn thơ Khi sao phong gấm rủ là

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích đoạn thơ Khi sao phong gấm rủ là. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 

 Phân tích đoạn thơ Khi sao phong gấm rủ là

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”

     Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này. Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.

 Dàn ý phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du

 1. Mở bài

- Giới thiệu bối cảnh của đoạn trích Nỗi thương mình.

2. Thân bài:

a. Khung cảnh lầu xanh trụy lạc, phóng túng:

- “Bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường.

- Hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.

- Hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim.

- Khắc họa hình ảnh khách làng chơi bằng các điển tích, điển cố, nhân vật trong lịch sử như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.

b. Niềm thương xót cho thân phận của Kiều

- Không gian: lầu xanh

- Thời gian: tàn canh, ban đêm

→ Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình

- Tâm trạng của Thúy Kiều:

+ Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình

+ Thương mình xót xa

→ Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều

- Nghệ thuật:

+ Cặp từ đối lập “ khi sao” và “ giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/ bát ⇒ nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập

+ Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “ thân sao”

+ sử dụng thành ngữ chéo:“dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) ⇒ nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng

+ Đối lập giữa khách và Kiều

 ⇒ Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng , xót xa cho thân phận của mình và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du- con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình

c) Đoạn 3: thái độ, ý thức bảo vệ nhân phẩm của Kiều

- Sống ở lầu xanh có đủ phong hoa tuyết nguyệt tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa, có đủ các thứ vui tao nhã cầm, kì, thi, họa nhưng thái độ của Kiều là sự vô cảm, thờ ơ, hờ hững.

- Nỗi buồn đau nội tâm đã lan tỏa ra cảnh vật khiến Nguyễn Du viết lên hai câu thơ khái quát quy luật:

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

- Nàng luôn tách mình ra khỏi cuộc sống chốn lầu xanh. Đó là sự phản kháng, chống đối vì nàng muốn đòi quyền sống, sống trong sạch - khát khao hướng thiện khi đã ý thức được giá trị nhân phẩm của Kiều.

3. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ của bản thân

- Có lẽ sẽ không quá lời khi nói rằng Nguyễn Du đã viết những dòng thơ này không chỉ bằng ngòi bút của một nghệ sĩ tài hoa, một nhà nhân đạo lớn mà còn bằng sự quan sát tinh anh của một nhà tâm lí học bậc thầy.


Bài văn mẫu phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du - Bài mẫu 1

     Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích “Nỗi thương mình”, trích từ câu 1229 đến câu 1248 là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó. 

     “Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc đời bị đẩy vào chốn lầu xanh bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc đời Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh

     Bằng cách sử dụng những hình ảnh ước lệ như “bướm lả ong lơi”, “cuộc vui”, “trận cười suốt đêm… đã hiện lên trước mắt người đọc cảnh ong bướm nhộn nhịp chốn lầu xanh kia. Nơi mà con người đem ra giống hàng hóa để trao đổi buôn bán làm thú vui xa hoa, cảnh làng chơi với các nhân vật Tống Ngọc và Trường Khanh thấy đậm nét hơn cuộc sống nơi đây. Người con gái nhỏ bé có số phận gắn với nơi này luôn ấp ủ trong mình một nỗi xót mà người đời không hay:

"Khi tỉnh rượu lúc canh tàn

Giật mình, mình lại thương mình xót xa"

     Nàng lấy rượu để giải sầu, để tâm hồn nàng được thoát khỏi nơi đây. Những lúc rượu tỉnh vào đêm khuya vắng nàng mới “giật mình” rồi tự “thương mình xót xa”. Phép điệp từ “mình” của Nguyễn Du đã gieo vào lòng người một nỗi xót xa, thương thay cho số phận người con gái long đong, bạc bẽo phải nương nhờ chốn phong trần.

     Những câu thơ tiếp theo là những năm tháng khi thân xác nàng Kiều phải chịu nỗi dơ bẩn, tuyệt vọng:

"Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân"

     Số phận ấy không ai thương thay nên Thúy Kiều đành tự ôm nỗi lòng thương lấy chính mình mà chỉ biết sầu đau. Nguyễn Du lấy hình ảnh “hoa tàn” để nói lên cuộc đời bị chà đạp, vùi dập của người con gái mỏng manh. Người con gái đẹp như bông hoa đang nở rộ phơi sắc vậy mà cánh hoa bị dẫm đạp héo úa không chút thương xót. Qua đây tác giả cũng đã phê phán được xã hội bất công, xã hội còn tồn tại quá nhiều định kiến, chỉ toàn những cái xấu xa không cho người khác một đường để sống.

      Thúy Kiều tuyệt vọng đến mức tưởng mình đã chết lặng:

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa

      Giữa chốn lầu xanh nàng lấy thơ, lấy họa, lấy đàn làm bạn để không cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Nhưng dù vậy thì lòng nàng cũng không khỏi u sầu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” không gian của nỗi buồn vẫn bao phủ lấy nàng khiến nỗi sầu gieo càng sầu thêm.

      Nguyễn Du viết nàng Kiều tuy đã cố gắng “gượng” sống mà cũng như đã chết, đây thực sự là đoạn ám ảnh nói lên cuộc đời cay nghiệt:

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai

     Như vậy chỉ với mấy câu thơ nhưng Nguyễn Du như nén hết cảm xúc trong đó để xót xa cùng thân phận cuộc đời của nàng Kiều bạc mệnh. Đây là nhân vật đã lấy đi bao nước mắt của tác giả cũng như người đọc.

    Đoạn trích Nỗi thương mình là nỗi thương cảm xót xa cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều, người phụ nữ tội nghiệp bị xã hội phong kiến vùi dập không thương tiếc, đến mức chết lặng cả tâm hồn vì quá đớn đau. Thông qua đoạn trích ta cũng thấy rõ được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi thấu hiểu và thông cảm cho nỗi đau của Thúy Kiều, đồng thời trân trọng và đề cao giá trị nhân phẩm tốt đẹp của nàng Kiều, dẫu có chìm trong chốn dung tục tầm thường nhưng vẫn giữ được một tâm hồn thanh khiết, không bị sa đà trong lối sống trụy lạc, hoang đường.


Bài văn mẫu phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du - Bài mẫu 2

     Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.

     Đoạn trích nằm từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần Lưu lạc của Truyện Kiều. Bắt đầu khi Mã Giám Sinh đưa Kiều về đến lầu xanh của Tú Bà, Kiều biết mình bị lừa, để tránh thoát số kiếp kỹ nữ mua vui, Kiều bèn nhắm mắt định quyên sinh nhưng không chết, lại được Đạm Tiêm báo mộng nàng vẫn chưa thoát khỏi sổ đoạn trường. Đành lòng Kiều nhẫn nhục ra ở tạm lầu Ngưng Bích, rồi mắc mưu của Sở Khanh, bỏ trốn không thành, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man và lấy cớ ép Kiều tiếp khách.

 “Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”

      Mở đầu là cảnh chốn lầu xanh ăn chơi hoang lạc, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng tượng của nàng Kiều. Với “bướm lả, ong lơi”, đầy dung tục tầm thường, hành động suồng sã, trêu ghẹo của khách làng chơi cùng với những bóng hồng lả lướt mời gọi của kỹ nữ, như ong vờn bướm đầy ngả ngớn. Không gian ngập tràn trong ánh đèn nến đỏ đỏ hồng hồng, cùng những “trận cười suốt đêm”, cùng với hương rượu nồng đượm từ “cuộc say đầy tháng”, không phân biệt ngày đêm, ồn ào, buông thả và náo nhiệt. Hình ảnh nam nữ vốn chẳng quen biết “dập dìu” tựa sát vào nhau như “lá gió, cành chim”, rồi cảnh kỹ nữ tiếp khách suốt ngày đêm, chẳng phân biệt ai ra ai, công việc cứ tuần hoàn không có điểm dừng, đến nỗi họ quên mất cả bản thân mình là ai.

Phân tích đoạn thơ Khi sao phong gấm rủ là?

       Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong điển tích văn chương là Trường Khanh, Tống Ngọc, vốn nổi danh với tính phong lưu, thích tầm hoa vấn liễu để giúp người đọc thấy được Kiều tiếp những đối tượng thường là phong lưu tài tử. Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa rõ nét cuộc sống nhơ nhớp, trụy lạc ngập tràn sắc dục và ê chề nơi lầu xanh, nơi phụ nữ được xem là thứ đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang lạc tầm thường của những kẻ lắm tiền nhiều của. Cũng chính trong đoạn thơ này, dưới tầm mắt quan sát thấu đáo của Kiều, cho thấy nàng có ý thức rất cao về nhân phẩm cũng như thân phận của mình.

      Kiều vốn được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu người phụ nữ lý tưởng tài sắc vẹn toàn, nhưng xót xa thay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, một con người thanh cao trong trẻo đến vậy, số mệnh lại đẩy đưa vào nơi nhơ nhấp, tầm thường nhất. Kiều vùng vẫy, chống lại số phận, không chấp nhận làm một kỹ nữ dơ bẩn mặc người chơi đùa, ở nàng hiện lên cái đức tính cao đẹp của loài hoa sen thuần khiết “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng Kiều bất lực trước hoàn cảnh éo le của mình, Kiều buộc phải chấp nhận sự thật, tự khóc thương cho bản thân.

 “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình lại thấy thương mình xót xa”

      Kiều đã cố quên đi nỗi đau đớn tủi nhục, trong men rượu, nhưng có ích gì khi, canh tan rượu tàn, còn lại tấm thân rã rời, đến Kiều cũng phải “giật mình” mà tự “thương mình xót xa”. Nhịp thơ trong câu lục, là nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, diễn tả cuộc sống chán chường, đằng đẵng vô tận, đến câu bát thì nhịp thơ 2/2/2/2 nhanh hơn, Kiều bàng hoàng tỉnh lại, nhận lấy nỗi đớn đau tận tâm can, như vặn xoắn lấy tâm hồn. Những câu thơ tiếp là dòng hồi tưởng đầy xót xa, chua chát của Kiều khi so sánh cuộc sống nhung gấm, thanh cao trước đây cùng với thực cảnh tủi nhục, nhơ nhớp chốn lầu xanh, ong bướm lả lơi.

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Mặt sao dày gió dạn sương?

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

       Thái độ xót xa của Kiều được thể hiện trực tiếp ở những câu thơ: Giật mình mình lại thương mình xót xa, Khi sao…, Giờ sao… Sự đối lập giữa thực tại và quá khứ thể hiện sự tiếc thương thân mình bị vùi dập và nỗi đau về sự thay thân đổi phận. Càng nghĩ đến quá khứ gần, đến cuộc sống êm đềm, phong lưu, nền nếp trước đây, Kiều càng ngơ ngác, đau xót, không hiểu vì sao có thể thay đổi thân phận nhanh như vậy. Nhịp thơ nhanh, gấp gáp cùng các điệp từ (mình, khi, sao), các phép đối xứng, những câu hỏi tu từ… thể hiện tâm trạng nhức nhối trong trái tim người con gái bất hạnh.

     Không chỉ thương thân xót phận, những lúc tỉnh rượu, tàn canh, Kiều càng thấm thía hoàn cảnh sống nhơ nhớp của mình. Nếu bướm lả ong lơi ở câu thơ trước chỉ hoàn cảnh khách quan bên ngoài – bọn đàn ông lắm tiền háo sắc – thì bướm chán ong chường ở đây lại chỉ tâm trạng chán chường, ghê sợ chính bản thân của Kiều. Từ xuân trong câu thơ không chỉ mùa xuân hay tuổi trẻ, vẻ đẹp mà chỉ hạnh phúc, niềm vui hưởng hạnh phúc lứa đôi.

     Trong cái kiếp sống làm vợ khắp người ta, nàng chỉ thấy nhục nhã, trơ lì, vô cảm chứ đâu có thực lòng mong muốn cảnh sống đó. Việc Kiều phải tiếp khách, phải buông mình theo những cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm chỉ là cái bề ngoài miễn cưỡng, còn thực chất bên trong, nàng vẫn rất dửng dưng đối với khách. Thì ra, giữa cảnh sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều vẫn còn giữ nguyên một tấm lòng trinh bạch: Mặc người mưa Sở mây Tần, Những mình nào biết có xuân là gì..

     Sau sự tự ý thức sâu sắc về cảnh ngộ, thân phận ê chề của mình, Kiều nhận thấy mình lạc lõng, cô đơn và đau khổ đến tuyệt đỉnh giữa chốn nhơ nhớp.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

      Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh Kiều cùng khách xem hoa, hóng gió trong đêm trăng, đêm tuyết… Kiều vốn là cô gái có đời sống nội tâm phong phú nhưng dẫu có yêu cảnh sắc thiên nhiên đến mức nào, thì ở chốn lầu xanh này, Kiều cũng không thể toàn tâm toàn trí mà hưởng thú vui. Vậy nên, việc ngắm cảnh đẹp cùng khách lúc này thực ra chỉ là sự giả tạo, nàng thờ ơ, hờ hững, dửng dưng với tất cả cảnh vật xung quanh. Hai câu thơ còn gợi tả thời gian trôi chảy hết đêm lại đêm, gợi cuộc sống lặp lại, mỏi mòn đặc biệt là nỗi cô đơn của Thuý Kiều giữa lầu xanh, giữa bao khách làng chơi, giữa cuộc say, trận cười mà vẫn hoàn toàn một mình, cô đơn, không ai chia sẻ.

     Những câu thơ “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” đã khái quát một quy luật của tâm lí con người được biểu hiện trong thơ văn. Vốn có tài năng cầm, kì, thi, hoạ nhưng ở chốn lầu xanh, Kiều cũng chỉ cố gắng tỏ ra vui một cách gượng ép vì không thể tri âm cùng ai. Đã không tri âm thì mọi thú vui đều trở thành vô nghĩa:

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

      Những câu thơ này đã trở thành tuyệt bút trong Truyện Kiều, trở thành tiếng nói chung của những người có tâm, có tài và cả những người bình thường nữa, mà chẳng may số phận đẩy đưa vào những hoàn cảnh trớ trêu, éo le, bất hạnh, đều thấy đồng điệu. Lời thơ chứng tỏ Kiều là một loại người khác, một nhân cách cao thượng, khác hẳn với nghề mà nàng buộc phải làm.

      Tác giả đã khai thác triệt để các hình thức đối xứng để tạo nên giá trị biểu hiện mãnh liệt cho đoạn thơ.  Các hình thức đối xứng được Nguyễn Du khai thác triệt để trong đoạn trích nhằm tô đậm nỗi thương thân xót phận của nhân vật. Đối xứng ở cấp thấp nhất là tiểu đối trong bốn chữ: bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim, dày gió / dạn sương, bướm chán / ong chường, mưa Sở / mây Tần, gió tựa / hoa kề. Đây là thủ pháp chẻ những cụm từ thông thường tạo thành quan hệ đối xứng nhằm nhấn mạnh mức độ cao hơn của nội dung cụm từ không có tiểu đối. So sánh bướm ong lả lơi với bướm lả ong lơi: tách hai yếu tố bướm và ong, lả và lơi ra và đặt ở thế đối xứng, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ được tô đậm, nhấn mạnh hơn, gây cảm giác xót xa hơn.

     Thông qua việc miêu tả đoạn trích Kiều tự thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của Kiều. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình, Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ Khi sao phong gấm rủ là mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 12/04/2022 - Cập nhật : 26/11/2022

Xem thêm các bài cùng chuyên mục