logo

Nội dung đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng?

Hướng dẫn tìm hiểu “Nội dung đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng” đầy đủ và chính xác nhất. Cùng kiến thức mở rộng là các bài văn hay Cảm nhận về đoạn 1 bài thơ Phú sông Bạch Đằng giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Ngữ văn 10.


Trả lời câu hỏi: Nội dung đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng?

- Đoạn 1 (từ đầu đến “luống còn lưu”): Cảm xúc lịch sử của nhân vật khách trước cảnh sắc của sông Bạch Đằng.

Ngoài ra, các em cùng Top lời giải mở rộng kiến thức thêm thông qua việc tham khảo các bài văn mẫu dưới đây nhé!


Cảm nhận về đoạn 1 bài thơ Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 1

Giáo sư Nguyễn Đình Chú có viết "Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc". Quả đúng, đằng sau không khí chiến thắng hùng tráng của trận thủy chiến trên sông Đằng bài phú đã nêu cao niềm tự hào dân tộc, tư tưởng nhân văn cao đẹp. Đoạn thơ đầu tiên không chỉ làm sống dậy hào khí chiến thắng đầy anh hùng mà còn là khúc tráng ca sáng ngời chân lý dân tộc.

Nội dung đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng?

Xét về kết cấu bài phú cổ thể mang tính hô ứng, là kết cấu đối đáp giữa hai hình tượng nhân vật chủ và khách. Khách ham đi, am hiểu nhiều và đặc biệt tâm huyết với lịch sử dân tộc. Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm về một thời anh hùng để đào sâu vào chiều dài của lịch sử dân tộc, theo bước chân anh hùng Tử Trường xưa (sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời Hán). Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp đã gánh vác trọng trách to lớn được cả dân tộc giao phó.. Cũng có thể nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư cấu, được xây dựng nhằm thỏa mãn nhu cầu cảm xúc để đẩy tình cảm đi đến tận cùng và trọn vẹn nhất.

Bài phú bắt đầu trong dáng vẻ của người lữ khách – “giong buồm gió lênh đênh, nhặt trăng bể mê mải”, lãng mạn và đầy chất thơ. Chính nhân vật này đã ngược dòng thời gian trôi về quá khứ đi tìm những kí ức hôm nào với hàng loạt những danh thắng “đệ nhất thiên hạ”. Đó là không gian đơn sơ của buổi sơ khai còn là thiên nhiên chẳng tiếc lời ca ngợi.

Triệu dát huyền hề Nguyên Tương,
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí, mị bất kinh duyệt

Cái tài của người cầm bút thực sự được bộc lộ khi đã dùng từ, đặt câu. Chỉ là danh xưng của các miền đất mà đọc lên nghe du dương bởi chúng được chọn lọc, sắp xếp thành nhạc điệu:

Tam > Ngô > Bách > Việt
Cửu > Giang > Ngũ > Hồ

Nào là sông Nguyên, sông Tương ở Hồ Nam, Vũ Huyệt ở Cối Kê… nào là Tam Ngô, Bách Việt… mà ai ai cũng đợi chờ, ngóng trông, cũng mang một ước mơ, một hy vọng được in dấu chân mình trên miền đất ấy. Cho dù xa xôi, dù cách trở trăm bề, dù quen dù lạ thì chắc hẳn dấu chân người đến không ai khác là lữ khách từng du ngoạn. Tưởng vậy là đã thoả “tráng chí"tung hoành bốn phương, nào ngờ: “Hung thốn Vân Mộng giả sổ đắc, nhị tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã"(Ngực nuốt vài trăm đầm Vân Mộng mà chí lớn tung hoành bốn phương vẫn còn chưa thỏa). Chưa thoả! Vì ngay trên chính mảnh đất quê hương, ngay trên mảnh đất anh hùng, ngay miền đất mẹ của Tổ quốc thân yêu mà chân ta còn chưa đặt tới, chiến tích sông Bạch Đằng! Đến với sông Bạch Đằng không đơn thuần là một cuộc du hí mà đến để hiểu, để nhớ và để biết ơn máu xương của thế hệ cha anh đã đổ xuống đổi lại cho yên bình hôm nay. Chiến thắng vẻ vang ấy, lý tưởng hào hùng ấy sẽ sống mãi và ghi dấu chiến công oanh liệt cho muôn đời hậu thế!

Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là chiều rộng và chiều sâu của dòng sông lịch sử, chiều rộng trong khoảng độ địa lí, chiều sâu trong bề dày lịch sử của Bạch Đằng giang. Điều đó đủ để thấy dòng sông địa lý vừa là đại giang vừa là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn nên thơ và trữ tình, nó dịu dàng e ấp như những nàng thơ, nó thơ mộng nên duyên với sóng nối sóng, với thuyền bè nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông. Người xưa thường nói tức cảnh sinh tình, có lẽ bởi thế mà đứng trước thiên nhiên vừa nên thơ vừa trữ tình ấy khiến lòng người rạo rực, khiến nỗi buồn niềm vui như lẫn lộn. Nơi chiến trường ta từng chiến đấu và chiến thắng, nơi trận thủy chiến lừng lẫy trong lịch sử nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với báo giáo gãy, bao máu và mồ hôi đã đổ xuống xương khô. Đất trời cũng như hiểu lòng người, lau lách như thể trở về quá khứ, gợi lại những ngày chiến đấu căng thẳng để thế hệ hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất:

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Trước phong cảnh tàn thu, trời nước biếc màu (thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu) tác giả không khỏi động lòng mà lung lay ngòi bút. Tác giả đã khéo vận dụng ý thơ cổ để câu từ trau chuốt mà thổi vào đó hồn thiêng Bạch Đằng. Nơi thiên nhiên kì vĩ của Bạch Đằng đã khơi nguồn cảm hứng để cảm xúc được dâng trào, để hồn người thêm lãng mạn phiêu du. Cảm hứng ấy dâng cao trong niềm tự hào vô bờ bến khi hồi tưởng về quá vãng anh hùng với lí tưởng kiên gan quyết chiến quyết thắng, “hào khí Đông A"là đây!

Như vậy khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hình ảnh sông Bạch Đằng từ lâu đã soi bóng lịch sử dân tộc như một huyền thoại, như một dấu son trong lịch sử 4000 năm chiến đấu giành, dựng nước và giữ nước của dân tộc anh hùng. Quả đúng, Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong nền văn học Việt Nam thời trung đại.


Cảm nhận về đoạn 1 bài thơ Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 2

Lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam có vô số đề tài hấp dẫn lấy cảm hứng từ những địa danh của đất nước. Mỗi địa danh lại gắn liền với chiến công vĩ đại như: Chi Lăng, Hàm Tử, Đống Đa. Nhưng địa danh gợi nhiều cảm hứng nhất cho các tác giả chính là Bạch Đằng lịch sử – nơi đây được biết đến qua những trận đánh gay cấn, quyết liệt chống quân xâm lược từ phương Bắc.

Trong lịch sử văn học thời trung đại, đã có rất nhiều tác giả chắp bút nên các tác phẩm viết về Bạch Đằng như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Mộng Tuân,… Và thành công hơn tất thảy là tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu. Tác phẩm này được đánh giá rất cao, được coi là bài phú nổi tiếng nhất ở thời Trần cũng như là bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.

Tác phẩm này được gợi cảm hứng từ sông Bạch Đằng – nơi từng ghi bao chiến công lẫy lừng. Sáng tác vào khoảng năm mươi năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên khi nhà thơ dạo chơi trên sông Bạch Đằng. Thể loại của tác phẩm này là phú – phô bày, bày tỏ. Đây là một thể văn dùng để tả cảnh phong tục hay là kể sự việc nào đó thuộc loại phú cổ thể.

Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được miêu tả khá nhiều. Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên trong trong những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đối với thiên nhiên để bày tỏ đạo lý thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi…

Ở bài “Phú sông Bạch Đằng” này thì Trương Hán Siêu lại tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc đi vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt là nơi khách đã từng đi; qua khách tỏ ra là một con người có tâm hồn phóng khoáng thích du ngoạn ngắm cảnh, tự do:

“Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi tràng mải miết
Sớm gõ thuyết chừ Nguyên Tương

Còn là một người ham hiểu biết, có tráng chí bốn phương, đi nhiều, biết rộng:

“Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”

“Tráng chí bốn phương” của “khách” được thể hiện qua việc liệt kê một loạt các địa danh: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt mở ra một không gian rộng lớn với những tên sông, tên đất nước Trung Hoa cho thấy tác giả là một người có tâm hồn rộng mở, khoan dung, khoáng đạt.

Những địa danh mang tính ước lệ lấy từ điển cố Trung Quốc là nơi tác giả đi qua bằng trí tưởng tượng. Mục đích du ngoạn của tác giả là dạo chơi ngắm cảnh và nghiên cứu về lịch sử dân tộc được thể hiện qua cụm “giương buồm giong gió” và “lướt bể chơi trăng” và câu thơ “Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.

Có thể thấy qua các câu thơ trên thì tác giả là một tao nhân mặc khách, thích làm bạn với gió trăng, ngao du qua miền sông bể. Ông mang khát vọng đi khắp đó đây, tự do vui thú hòa mình với thiên nhiên. Đó quả thực là một bậc chí giai đi rộng biết nhiều theo đúng quan niệm người xưa “Trí giả nhao thủy”.

Tiếp đến là tác giả tả cảnh sông nước Bạch Đằng. Con thuyền đưa khách đến sông Bạch Đằng. Con mắt của tác giả đã thu vào một bức tranh sông nước mang một vẻ đẹp sông nước vừa hùng vĩ dữ dội, cũng vừa rất đỗi nên thơ:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu”

Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ ở hình ảnh “sóng kình” đã gợi ra những lớp sóng lớn như là những đàn cá voi. Hình ảnh “đuôi trĩ” thì gợi ra cho ta thấy những cánh buồm xuôi ngược, nối nhau ở trên sông. Sắc nước màu trời như hòa vào làm một. Vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông khiến tác giả vui và tự hào trước cảnh thắng. Xong, “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu” dâng lên nỗi buồn hoài niệm.

“Buồn vì cảnh thẳm đứng làng giờ lâu” – đó là oanh liệt gắn với con sông nhưng chiến trường xưa nay trơ trọi hoang vu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết, hơn một trăm năm sau Nguyễn Trãi khi qua đây cũng đã tưởng tượng ra cảnh

“Ngạc chặt, kình băm non lởm chởm
Giương chìm giáo gãy biết bao tầng”

Đó còn là nỗi nhớ về người anh hùng đã hi sinh:

“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Đặt vào hoàn cảnh của tác giả khi sáng tác bài Phú, khi nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, niềm hoài cổ ấy là nỗi buồn thương tiếc về một thời hào hùng oanh liệt của đất nước.

Có thể thấy qua phần đầu tiên của bài “Phú sông Bạch Đằng”, ta đã thấy được công lao to lớn của các vị anh hùng thời Trần đồng thời cũng cảm nhận được niềm vui, sự hân hoan, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, tương lai tươi mới của đất nước. Đây là một bài Phú có bố cục chặt chẽ, nhịp điệu linh hoạt, phóng khoáng, lời văn cô đọng, dồi dào cảm xúc.

Qua đây, ta thấy được những chiến công lẫy lừng, đường lối giữ nước tài tình của dân tộc ta cũng như quân dân nhà Trần lúc bấy giờ. Vậy nên chúng ta cần phải biết giữ gìn, phát huy để giúp đất nước phát triển cũng đồng thời phải biết trân trọng cuộc sống mình đang có bởi đã có rất nhiều người anh hùng hi sinh để đem lại hòa bình như bây giờ.

icon-date
Xuất bản : 08/04/2022 - Cập nhật : 26/11/2022