logo

Nghị luận văn học Phú sông Bạch Đằng

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Nghị luận văn học Phú sông Bạch Đằng. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 


Bài văn nghị luận Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 1

Bốn nghìn năm lịch sử là bốn nghìn năm văn hiến, bốn nghìn năm với bao máu và nước mắt để đổi lấy những ngày độc lập, tự do. Biết bao di tích đã vinh dự ghi lại những ngày tháng hào hùng ấy và Bạch Đằng giang là một trong số ít những dòng sông như vậy. Ba lần đánh tan quân Nguyên Mông đã quá đủ để dòng sông anh hùng này có quyền tự hào về mình. Hiểu điều đó, Trương Hán Siêu đã viết lên những áng văn bất hủ trong bài “Bạch Đằng giang phú”. Bài thơ tựa một bản tấu chương nhắc nhớ về bao chiến công hào sảng một thời.

Trương Hán Siêu vốn là một danh sĩ thời Trần, bản tính cương trực, học vấn uyên bác lại giàu lòng yêu nước, được cả nhà vua và triều thần đời Trần tin tưởng. Bài “Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đây là thể thơ dùng lối đối đáp chủ – khách để nói lên nội dung, thường có vần, đôi khi xen lẫn văn vần và văn xuôi. Màu sắc trữ tình và yếu tố khoa trương luôn đậm đặc trong phú. Cả bài thơ là áng tuyệt bút ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của sông Bạch Đằng và gợi lại các chiến công lừng lẫy ở địa danh này. Trương Hán Siêu đã dõng dạc khẳng định: núi sông trùng trùng, muộn vị anh hùng hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh hùng dân tộc, sự bền vững muôn đời của dân tộc. Thông qua đó, tác giả cũng đồng thời đề cao vị trí và vai trò của con người trong lịch sử, truyền tải giá trị nhân văn sâu sắc.

Trước hết là những vần thơ giới thiệu và nêu lên tâm trạng nhân vật khách khi đến với bờ sông Bạch Đằng. Cảm xúc của nhân vật khách trước cảnh đẹp tráng lệ của sông Bạch Đằng dần được mở ra:

“ Khách có kẻ:

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.”

“Khách” hay chính là cách tự xưng của tác giả, là nhân vật trữ tình. Trương Hán Siêu vốn dĩ là người mang trong mình học vấn uyên thâm nhưng cũng rất phóng khoáng, luôn hết mình với thiên nhiên đất trời. Bởi thế chân dung ông trong bài thơ cũng là chân dung của một con người với tư thế ung dung để thu vào mình tất cả sự mênh mông vạn vật. Nhịp thơ theo lối tự do, câu dài ngắn đan xen, như con thuyền khi chậm chậm thưởng ngoạn, lại như khi lướt băng băng trên sóng Bạch Đằng. Vị khách này thể hiện rõ ra là một kẻ đi nhiều nơi nhưng tất cả hình ảnh ở đây vốn chỉ mang vẻ tượng trưng cho cá tính lấy việc ngao du xuân thủy làm thú vui, vênh mặt với đời về thú giang hồ của mình… Không gian khoáng đạt với gió, trăng, bể cũng dần mở ra, cho thấy sự kì vĩ của thiên nhiên mà ẩn sau đó là tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của khách. Đêm thì vui chơi mải miết với trăng già, ngày vui vẻ gõ thuyền chừ Nguyên Tương, chiều lại thăm chừ Vũ Huyệt. Ở đây, khách chủ động hòa mình vào với thiên nhiên chứ không hề có chút vẻ nhỏ nhoi giữa không gian kì vĩ. Các địa danh: Nguyên Tương, ngữ Hồ… xuất hiện đều lấy trong sử sách Trung Quốc. Cách nói ước lệ được thể hiện ở chỗ tuy cách xa nhau nhưng khách có thể đến trong một sớm một chiều nên chắc hẳn khách đây qua sách vở. Qua đó ta có thể thấy những danh lam thắng cảnh ở xứ Người dường như rất khó lọt vào mắt xanh của người. Nhưng khi đặt chân đến các địa danh nước Việt như Đông Triều, sông Bạch Đằng – những không gian sông nước rộng mênh mang – thì xúc cảm lại có đôi phần khác biệt:

“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.”

Con sông Bạch Đằng muôn đời muôn kiếp vẫn dài và rộng, dịu êm và ồn ã từng đợt sóng biếc như thế. Một loạt phép liệt kê đại danh cùng so sánh được thể hiện ra nhằm chỉ rõ  khách muốn đi khắp nơi và tạo tâm thế cho người đọc chuẩn bị đón nhận sông Bạch Đằng. Không phải những địa danh xứ người mà là con sông gần gũi, quen thuộc gợi ra niềm tự hào thầm kín nhất. Cảnh sông dần mở ra chân thực và đặc sắc…

Cảnh sông Bạch Đằng và tâm trạng của nhân vật khách hiển hiện:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Sự đối lập sâu sắc giữa động và tĩnh, giữa thực và hư, giữa hiện tại và quá khứ càng rõ nét. Thiên nhiên cũng vì thế mà mang nhiều sắc thái khác nhau: khi thì hùng vĩ, tráng lệ; khi thì thiên nhiên thơ mộng, trữ tình; khi lại hoang vu, hẻo lánh. Trước hết, vẻ hùng vĩ của Bạch Đằng Giang được thể hiện rõ qua các hình ảnh: địa thế hiểm trở với “sóng kình muôn dặm”, những con thuyền nối nhau liên tiếp tựa “đuôi trĩ một màu”. Ngôn ngữ khoáng đạt góp phần làm nên giá trị của áng thơ. Thiên nhiên từ đây cũng được miêu tả trên một khía cạnh khác: thơ mộng, trữ tình. Thời gian được nhận định rõ tại cụm từ “ba thu”. Ý thơ “Nước trời một sắc” dường như mượn một hình ảnh của Vương Tử Bột ở bài “Đằng Vương các”: “Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu). Cảnh núi non, bờ bãi dựng lại cảnh chiến trường rùng rợn một thời với một loạt từ láy “san sát”, “đìu hiu”. Khung cảnh đầy lá lách và lau sợi, mang vẻ hoang vu, hẻo lánh ngàn năm. Núi gò, bờ bãi mênh mông như gươm giáo, xương cốt lũ giặc tử trận chất đống xưa. Nét vẽ hoành hành ấy khiến độc giả không khỏi rùng mình kinh hãi. Tâm trạng của Trương Hán Siêu đến đây đã được lột tả rõ: vừa buồn thương cho sự đổi thay của cảnh vật, vừa tiếc nuối ngậm ngùi với những ánh sử vàng đã qua, xót đau cho những vị anh hùng dân tộc đã ngã xuống. Đó chẳng phải là nghĩa tình “Uống nước nhớ nguồn” thủy chung ngàn đời hay sao?  Giọng điệu thơ thay đổi linh hoạt, khi thì hào sảng, khi nặng trĩu ưu tư.

Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện ở bài phú – bắt đầu kể về những chiến công vang dội trên sông Bạch Đằng:

“ Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,

Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao

… Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi”

Đây đều là những vật cao nhiên, đóng vai trò là nhân chứng lịch sử quan trọng, tăng tính xác tín cho câu chuyện. Từ việc miêu tả và trữ tình, Trương Hán Siêu chuyển sang ngôn ngữ tự sống động, biến hóa. Thái độ của bô lão với khách vô cùng nhiệt tình, trân trọng. Chỉ bằng vài lời ngắn ngủi mà không khí mịt mù khói lửa chiến tranh được hiện lên sắc nét. Qua lời kể của các bô lão, sông Bạch Đằng là nơi ghi dấu bao chiến công chói lọi. Ta và địch đều tập trung sức lực cho một trận đánh quyết tử, vang dội trời đất:

“Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến lũy bắc nam chống đối.”

Cảnh thủy chiến diễn tả với kẻ địch lắm mưu nhiều kế, ta thì chính nghĩa thuận trời. Nghệ thuật đối trong từng câu thơ đã nêu bật không khí chiến trận nóng bỏng. Các hình ảnh dần được tái hiện một cách gợi cảm, khiến người đời sau đọc đến đây cũng không khó để tưởng tượng bối cảnh lúc bấy giờ:

“Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.”

Những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ được đặt trong tương quan đối lập: nhật nguyệt/ mờ, trời đất/ đổi đã báo hiệu một cuộc thủy chiến vang động đất trời. Trương Hán Siêu thật tàu tình khi sử dụng tích xưa, so sánh với những trận đánh lớn nhằm khẳng định chiến công vang dội của ta:

“Kìa :

Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi !”

Câu dài xen lẫn những câu ngắn với điển cố gây cảm giác hồi hộp với người nghe. Nhưng có một điều quân giặc không ngờ tới đó là sức “Sát Thát” của quân đội nhà Trần vẫn luôn được bốn phương tám cõi ủng hộ. Vậy nên, thắng lợi là tất yếu. Nguyên nhân chiến thắng chính là nhờ yếu tố địa linh nhân kiệt cùng vai trò của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn:

“Thế nhưng :

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối !”

Tất cả ý thơ đều thể hiện sự tôn trọng của vua Trần với những vị tướng tài ba, với những bề tôi trung thành. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định tình yêu nước cùng lòng tự tôn dân tộc. Nước sông Bạch Đằng vẫn chảy xiết nhưng ngàn năm sau bại quân vẫn không rửa được nỗi ô nhục. Đây là bài học đắt giá cho bất cứ cuộc chiến tranh nào đi ngược lại lẽ trời, xâm phạm biên cương Đại Việt!

Lời miêu tả, tự sự dừng lại để nhường chỗ cho những suy ngẫm về sự hưng vong của dân tộc, về sự thắng bại trong trang sử dân tộc ta:

“Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”

Lời của bô lão từ việc sông Bạch Đằng mênh mông, hiểm trở đến khái quát nên quy luật của con người: sông đổ về biển, bất nghĩa sẽ lưu vong, anh hùng sẽ lưu danh thiên cổ. Bài thơ thần năm nào bên bờ sông như Nguyệt vẫn còn vang vọng cùng đồng điệu với lời thơ Trương Hán Siêu:

“Nam Quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(Nam Quốc sơn hà)

Quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân lại một lần nữa được khẳng định: trời đất tuy giữ vai trò quan trọng nhưng chính con người mới quyết định tồn vong của một nước. Lời của khách tiếp tục ngân nga, hào sảng:

“Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.”

Bên cạnh ca ngợi dòng sông lịch sử, Trương Hán Siêu tin rằng nguồn cội của chiến thắng to lớn chính là do tài năng của hai vị thánh quân Trấn Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Năm 1287, giặc Nguyên kéo quân xâm lược lần ba bờ cõi ta, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào”. Vị đại vương của ta không ngần ngại mà trả lời rằng: “Năm nay đánh giặc nhàn.” Tưởng như khinh địch, tưởng như chủ quan nhưng đó hoàn toàn là nhận định được rút ra từ hào khí Đông A và tầm vóc anh hùng của một dân tộc đã có nhiều kinh nghiệm trong hai lần đánh đuổi quân Nguyên Mông. Và sau tất cả, tác giả không quên ca ngợi cuộc sống an yên gắn với niềm tự hào sông núi:

“Sông Đằng một dải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”

Bởi những ẩn ngữ phong phú sau lớp vỏ ngôn từ, Trương Hán Siêu đã thực sự gợi lên nhiều chiều trong cách tiếp cận của độc đời. Dưới bàn tay lão luyện của ông, thể phú thực sự đã đạt đến trình độ hoàn mĩ.

Trương Hán Siêu tuy là một người con của truyền thống văn vật của mảnh đất Ninh Bình đẹp cả người cả cảnh nhưng ông còn là người con của cả một thời đại Thăng Long phồn hoa, ngùn ngụt khí thế rồng thiêng. Ở ông, niềm tự hào dân tộc đã trở thành ngọn đuốc to lớn thắp sáng từng câu chữ. Chữ ấy rốt cuộc chỉ để “tỏ lòng”, để thỏa ước nguyện bộc rõ hào khí non sông và “Bạch Đằng Giang phú” thực đã đạt đến ước nguyện ấy.

Nghị luận văn học Phú sông Bạch Đằng chi tiết nhất

Bài văn nghị luận Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 2

Văn học trung đại đã có thời kỳ phát triển đến đỉnh cao với nhiều tác phẩm nổi tiếng từ chữ Hán đến Nôm, từ đủ các thể loại: thơ, cáo, phú, hịch,... Bài “Phú sông Bạch Đằng” (“Bạch Đằng giang phú”) được sáng tác bởi môn khách của Trần Quốc Tuấn - Trương Hán Siêu - một người tính tình cương trực, am hiểu nhiều lĩnh vực, rất được nhân dân và vua Trần tín nhiệm. Bài phú được sáng tác sau chiến công vang dội của quân ta trước kẻ xâm lược Nguyên - Mông, lấy cảm hứng từ dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Đánh giá về “Phú sông Bạch Đằng” giáo sư Nguyễn Đình Chú viết: "Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc".

Sông Bạch Đằng được mệnh danh là dòng sông của lịch sử. Bởi chính nơi đây đã chứng kiến nhiều trận đánh với những chiến thắng hào hùng của quân dân ta trước kẻ thù xâm lược. Tại đây, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán, giết Lưu Hoằng Thao năm 938; Lê Hoàn chiến thắng quân Tống năm 982 và Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên - Mông bắt sống Ô Mã Nhi năm 1288. Bạch Đằng đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận của thơ ca.

Trong một lần du ngoạn bốn phương, có dịp đứng trước dòng sông Bạch Đằng hùng vĩ, Trương Hán Siêu đã sáng tác nên bài “Phú sông Bạch Đằng” nhằm ghi lại những cảm thức khó tả của bản thân khi ghé thăm chốn cũ. Bài phú được viết theo thể phú cổ thể, viết bằng chữ Hán, mượn hình thức đối đáp giữa hai nhân vật chủ - khách để bày tỏ, diễn đạt nội dung, câu có vần, không nhất thiết có đối, kết bằng thơ. Nhân vật khách chính là tác giả, có thú tiêu dao, du ngoạn bốn bể cũng là để bổ sung kiến thức, tìm hiểu lịch sử dân tộc, noi gương vị sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời Hán Tử Trường. Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp, vừa là dân địa phương, vừa là những người đã từng chứng kiến, từng tham gia chiến trận.

Đứng trước Bạch Đằng giang một thời hùng dũng, “hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng” sống dậy một cách chân thực nhất trong từng câu chữ. Trước mắt như hiện ra khung cảnh thiên nhiên vô cùng mỹ lệ, hùng vĩ:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời: một sắc,

Phong cảnh: ba thu.”

Tác giả sử dụng hàng loạt từ láy “bát ngát”, “thướt tha”, mở ra một không gian rộng lớn, rợn ngợp. Dòng sông như trải dài muôn dặm, trên đó, những chiếc thuyền nối đuôi nhau như đuôi của chim trĩ, vô cùng đẹp mặt mà cũng rất hào hùng. Dường như, ở chính nơi ấy, mọi thứ đều hài hòa, vẻ đẹp cũng quyện lại vào nhau, màu trời, màu nước và lòng người đều hợp lại thành một, mê đắm. Phong cảnh ấy tựa như tranh vẽ, đã đạt đến độ chín nhất.

Khi người khách đang thả hồn mình trước nét đẹp của “sóng kình muôn dặm”, người chủ -  các bô lão ở ven sông - đã tái hiện lại cho nhân vật khách nghe về những trận chiến hào hùng tại chính nơi này:

“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”

Cảnh đẹp như thế, nhưng nơi đây từng là chiến trận, khí thế chiến đấu rập trời, nhuộm đỏ máu tươi. Hai trận đánh lớn được kể ra tựa như một cuốn phim tua châm, trở về với lịch sử: trận đánh năm 1288 “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã”, kế đến là chiến thắng của Ngô Quyền năm 938 phá tan đội quân Hoằng Thao. Đó là những trang vàng lịch sử chói lọi của dân tộc.

Bài phú đặc tả về trận đánh năm 1288 của vua tôi nhà Trần:

“Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kỳ phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.”

Đó là một thế trận cân sức cân tài, địch và ta đều vô cùng quyết chiến, hai bên giằng co, bất thân thắng bại, dự đoán cho một trận thủy chiến ác liệt. Hàng loạt từ ngữ gợi tả được tác giả sử dụng để miêu tả chiến trận ngay lúc ấy. Thuyền tàu nhiều vô kể “muôn đội”, quân đông “sáu quân”, cờ bay phấp phới, giáo gươm đã chuẩn bị kỹ càng.

Kẻ thù hết mực hung hăng, kiêu ngạo, xem thường quân ta như cỏ rác, quyết tâm quét sạch nước ta:

“Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.”

Từ Tất Liệt, Lưu Cung đều kể mình quân mạnh “thế cường”, “chuốc dối”, cho rằng một roi gieo xuống là có thể biến nước Nam thành của mình. Nhưng rõ ràng, chẳng gì có thể địch lại được truyền thống yêu nước đang hừng hực cháy, dù “đầu bay, máu chảy” vẫn kiên cường, bất khuất đứng lên mà đánh đuổi bọn cướp nước ra khỏi bờ cõi, một ngọn cỏ cũng không được để mất. Và quân dân ta thực sự đã giành thắng lợi:

“Khác nào như khi xưa:

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”

Chiến thắng ấy không thua bất kỳ một chiến công vang dội nào trong lịch sử. Bằng hình ảnh so sánh, kể về trận Xích Bích, Hợp Phò và sự đại bại của quân địch, Trương Hán Siêu đã cho thấy được sự thảm hại của đội quân Mông - Nguyên. Không cần phải đao to, múa lớn, bằng những từ ngữ súc tích, ngắn gọn nhất mà tác giả đã truyền đến cho người đọc không khí quyết liệt, chiến thắng oanh liệt nhất của trận đánh tại chiến trận này.

Nghị luận Phú sông Bạch Đằng ta còn thấy được tài năng của nhà thơ, ông khéo léo kết hợp câu văn dài ngắn linh hoạt, câu dài gợi không khí trang nghiêm, câu ngắn lại lột tả không khí gấp gáp, hết sức căng thẳng.

Không chỉ có thế, bài phú “còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc”. Đó là chân lý về vai trò, sức mạnh vô tận của con người:

“Từ có vũ trụ,

Đã có giang san.

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.

Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Du Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.”

Chiến thắng được làm nên là bởi các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhưng trên tất cả chính là vai trò, vị trí của con người: “Nhân tài giữ cuộc điện an”. Bằng cách mượn hình ảnh các danh nhân, điển tích của Trung Quốc: “vương sư họ Lã”, “quốc sĩ họ Hàn”, tác phẩm ca ngợi con ngươi Đại Việt, đặc biệt là Trần Hưng Đạo. Người tướng tài ấy vô cùng giỏi trong mưu lược, dụng quân, phán đoán tình hình và lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến. Cũng nhờ tài thao lược, những chiến thuật đánh phù hợp, kịp thời và cách điều động quân lính linh hoạt nên mới xóa bỏ được âm mưu xâm lược, khiến quân địch đại bại


Bài văn nghị luận Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 3

Với Trương Hán Siêu, người tướng có tài thôi là chưa đủ, nhân vật khách đã đưa ra đạo lý khác của dân tộc. Con người cần có đức cao, sống có tình có nghĩa như truyền thống bao đời nay:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Cuối cùng là chân lý về sự bất tử của những anh hùng như dòng sông kia hùng vĩ và bất biến:

“Sông Đằng một dải dài ghê,

Sóng Hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”

Những người anh hùng dân tộc đó, dù đã hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu danh tới muôn đời sau, đời đời ghi nhớ; chỉ những người bất nghĩa tiêu vong. Bởi chân lý của dân tộc ta là trọng tình trọng nghĩa, biết ơn những người đã xả thân cứu nước, đóng góp công sức và có chiến công trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

Bài Phú sử dụng nhiều chi tiết mang hình ảnh điển tích chọn lọc kết hợp với thủ pháp liên ngâm, hình thức đối đáp. Tác giả sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” nhân vật “các bô lão” để thể hiện ý đồ nội dung. Bên cạnh đó, việc liên hệ đến các nhân vật, trận đánh trong lịch sử cũng mang lại giá trị nghệ thuật vô cùng lớn. Tất cả cô đọng lại, tạo nên “đỉnh cao của thể phú trong văn học trung đại”.

Không sai khi nói rằng: "Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc". “Phú sông Bạch Đằng” không chỉ cho độc giả được một lần chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, khơi dậy lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Mà ở đó, người đọc tựa như đang tận mắt chứng chiến khí thế chiến đấu mãnh liệt của trận đánh trên dòng Bạch Đằng giang cũng chính là nhắc nhở cho chúng ta những chân lý sống muôn đời của dân tộc. Đó là tinh thần yêu nước sâu sắc, tình yêu thiên nhiên, hoài bão hoàn thiện bản thân, để có thể đứng lên bảo vệ tổ quốc lúc nguy nan nhất; đồng thời nhắc nhở mỗi người “ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, biết ơn những hi sinh, mất mát mà ông cha ta đã đánh đổi. 

>>> Xem thêm: Đề đọc hiểu Phú sông Bạch Đằng

---/---

Trên đây là một số bài văn mẫu Nghị luận văn học Phú sông Bạch Đằng mà Top lời giải đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

icon-date
Xuất bản : 26/05/2022 - Cập nhật : 27/11/2022