logo

Đọc hiểu Xúy Vân giả dại

Xúy Vân cố tình cho người ta thấy rõ vẻ mê sảng vô lí (nhảy cóc đột ngột từ nội dung này sang nội dung khác) theo kiểu lời nói của người điên). Mặt khác lại thể hiện đúng tâm sự nỗi niềm cảnh ngộ thực của cô: một người vợ khao khát tình yêu hạnh phúc trong đời sống hôn nhân của chính mình. Dưới đây là đề Đọc hiểu Xúy Vân giả dại. Hãy cùng Toploigiai tham khảo bài viết này nhé!

Đọc hiểu Xúy Vân giả dại

Đọc văn bản Xúy Vân giả dại dưới đây và thực hiện yêu cầu đọc văn bản chèo hoặc đọc văn bản tuồng nêu phía dưới:

Xúy Vân giả dại

(trích vở chèo Kim Nham)

Nội dung vở chèo Kim Nham

Kim Nham là một học trò nghèo từ Nam Định lên Tràng An trọ học, được Huyện Tể gả con gái là Xúy Vân. Là một cô gái đảm đang, khéo léo, Xúy Vân chỉ ước mong có một gia đình đơn giản, đầm ấm, “Chờ cho lúa chín bông vàng/ Để anh đi gặt để nàng mang cơm”. Tuy nhiên, hôn nhân không hạnh phúc như nàng mong đợi. Ngay sau lễ cưới, Kim Nham quay lại Tràng An dùi mài kinh sử, bỏ Xúy Vân một mình ở quê, gánh vác việc nhà chồng và cô độc trong cảnh chờ đợi.

Trần Phương, một gã Sở Khanh phong tình ở Bắc Ninh, tán tỉnh dụ dỗ Xúy Vân. Nàng xiêu lòng nghe lời hắn giả phát điên để Kim Nham viết giấy li hôn rồi cưới hắn. Kim Nham tìm thầy thuốc, cô đồng, thầy cúng khắp nơi về chạy chữa cho vợ nhưng không được, đành viết giấy li hôn. Nhưng Trần Phương đã bỏ Xúy Vân đi với một phụ nữ khác. Bẽ bàng đau khổ, Xúy Vân từ giả điên trở thành điên thật, lang thang ăn xin.

Kim Nham đỗ đạt, được bổ làm quan. Một lần vô tình gặp vợ cũ, Kim Nham bỏ một nén bạc vào nắm cơm sai người đem cho nàng. Xúy Vân bẻ nắm cơm, thấy nén bạc, hỏi ra mới biết. Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông tự vẫn.

Trích đoạn Xúy Vân giả dại sử dụng nhiều làn điệu phổ biến trong chèo cổ như Con gà rừng, Lới lơ, Hát xuôi hát ngược, Quá giang, kết hợp với ngôn từ giàu chất ẩn dụ. Vũ đạo của Xúy Vân có tính ước lệ cao, thể hiện những hoạt động đời thường của nhân vật, như dệt vải, xe tơ, gặt lúa, khâu vá, thêu thùa, …

 

Xúy Vân

(ra, nói lệch)

 

 

 

 

 

 

 

(hát xuôi)

 

 

 

 

 

 

 

 

Tiếng đế

Xúy Vân

(xưng danh)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(hát con gà rừng)

 

 

 

 

 

 

(nói)

 

(hát xe chỉ)

 

 

 

 

 

(nói)

 

 

 

 

 

(hát sắp cá rô)

 

(nói)

 

(hát ngược)

 

(nói)

(hát ngược)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(nói lệch)

 

 

 

 

 

(phong thư)

 

Đau thiết, thiệt van

Than cùng bà Nguyệt

Đánh cho lê liệt

Chết mệt con đồng

Bắt đò sang sông

Bớ đò, bớ đò …!

Tôi la đò, đò nỏ có thưa

Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò.

Bớ các chị nhiêu ơi, bớ các bạn tình ơi!

Cách con sông nên tôi phải lụy đò

Bởi chưng trời tối, phải lụy cô bán hàng

Chẳng nên gia thất thì về, ở làm chi nữa, chúng chê bạn cười.

Tôi chắp tay, lạy bạn đừng cười,

Lòng tôi không giăng gió tôi gặp người gió giăng.

Gió giăng thì mặc gió giăng

Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau

Chị em ơi, tôi ra đấy có phải xưng danh không nhỉ?

Không xưng danh, ai biết là ai?

 

Tôi bước vào tôi ô rằng vậy:

Chẳng giấu gì, tôi tên gọi Xúy Vân,

Lấy Kim Nham nhà khó gian truân,

Chồng học vắng chầy ngày mong mỏi

Tôi ngồi từ tối

Đợi khách tha nhang

Gái phải nằm hàng

Nghề dại dột … nhưng tài cao vô giá.

Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ, ai cũng gọi là cô ả Xúy Vân.

Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương

Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại.

Con gà rừng

Ăn lẫn với công

Đắng cay chẳng chịu được, láng giềng ai hay?

Chờ cho cây lúa chín vàng,

Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm.

Bông dắt, bông díu, xa lắc, xa líu, láng giềng ai hay,

Úc bởi Thung Huyên

Ơ, kìa con nhện, xuôi xuống đây vương tơ để đằng

này xe chỉ đi!

Ngồi rồi xem nhện xe tơ,

Xem dăm sợi chỉ đợi chờ tình nhân.

Nhác trông lên núi Thiên Thai

Thấy hai con quạ ăn xoài trên cây

Đôi ta dắt díu lên đây

Áo trải làm chiếu, chăn quây làm mùng.

Chị em ơi, tôi nhớ tình nhân, cho tôi than thở một

câu nhá!

Tôi thương nhân ngãi

Tôi nhớ nhân tình

Đêm năm canh trằn trọc hòa năm

Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu

Con cá rô nằm vũng chân trâu

Để cho năm nảy cần câu châu vào

Chị em ơi, tôi hát xuôi cũng được, tôi hát ngược cũng

hay, tôi hát câu này cho chị em nghe nhá.

Chiếc trống cơm ai khéo vỗ nên vông

Một đàn con gái lội sông té bèo.

Tôi bắt chước chị em tôi té bào nhá!

Chuột chạy bờ rào

Muỗi ấp cánh dơi.

Ông Bụt kia bẻ cổ con nai

Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây

Ở trong đình có cái khua, cái nhôi

Ở cái nón có cái kèo, cái cột

Ở dưới sông có cái phố bán bát

Lên trên biển đốn cây gỗ làm nhà

Vâm kia ấp trứng ba ba

Cưỡi con gà mà đi đánh giặc!

Rồ rồ, dại dại, điên điên …

Rồ này ai bán thì mua

Dại này ai thấy không mơ mẩn tình

Lúc thì giả dại ra hình làm điên

Lúc thì tưởng đến nhân duyên

Cho nên đến nỗi phát điên, phát rồ.

Phong bức thư này, nhắn gửi Kim Nham

Anh ở đâu cho chóng mà về

Nghe lời tôi lập một đàn thề

Nghe thời chớ, không nghe, để gái này tự vẫn

(Hạ)

(Kim Nham, chèo cổ, Hà Văn Cầu sưu tầm, chú thích;

In trong Chèo cổ tuyển tập, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1976)

Câu 1: Cho biết:

a. Cái khó của việc thể hiện hành động, ngôn ngữ của một nhân vật giả điên như Xúy Vân đối với tác giả biên kịch là gì? Khó khăn ấy đã được tác giả văn bản trên khắc phục bằng cách nào?

b. Sự kết hợp đối thoại – bàng thoại – độc thoại; sự thay đổi từ hát sang nói, nói sang hát; cách chuyển điệu trong hát và nói (nói lệch, hát xuôi, hát ngược, hát con gà rừng, hát xe chỉ, hát sắp cá rô, ..) có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện trạng thái tâm lí của nhân vật Xúy Vân?

Trả lời:

a. Cái khổ của việc thể hiện hành động, ngôn ngữ của một nhân vật giả điên như Xúy Vân chính là thể hiện trạng thái “giả điên” nghĩa là làm sao để người đọc cảm nhận được ở nhân vật có những biểu hiện của sự điên (điên giả) lẫn những biểu hiện của sự tỉnh (tỉnh thật), và tất cả phải thể hiện qua lời thoại (nói, hát) của nhân vật.

Tác giả biên kịch dân gian đã khắc phục được khó khăn này thông qua một số thủ pháp đáng lưu ý:

- Kết hợp nhiều loại lời, nhiều điệu hát và thay đổi liên tục đối thoại – bàng thoại – độc thoại; chuyển điệu trong hát và nói (nói lệch, hát xuôi, hát ngược, hát con gà rừng, hát xe chỉ, hát sắp cá rô, …).

- Tận dụng hiệu quả các bài hát ngược, kiểu:

Ông Bụt kia bẻ cổ con mai

Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây

b. Tác dụng của sự kết hợp đối thoại – bàng thoại – độc thoại;sự thay đổi từ hát sang nói, nói sang hát; cách chuyển điệu trong hát và nói (nói lệch, hát xuôi, hát ngược, hát con gà rừng, hát xe chỉ, hát sắp cá rô, …) là nhằm thể hiện trạng thái tâm lí phức tạp, nhiều biến đổi bất ngờ (hữu thức và vô thức) của nhân vật Xúy Vân: một nhân vật đang cố tỏ ra mình đang “điên cuồng, rồ dại” một cách tỉnh táo. Chẳng hạn: các bàng thoại, độc thoại có ưu thế thể hiện con người tỉnh thì các lời đối thoại (nói, hát) lại thể hiện con người điên (giả) của Xúy Vân. Hoặc đoạn lời hát ngược cố hát to cho thiên hạ nghe (đối thoại) thể hiện tập trung con người điên (giả) của Xúy Vân.

Đọc hiểu Xúy Vân giả dại

Câu 2: Qua lời thoại (nói và hát), nhân vật Xúy Vân cho thấy có sự mâu thuẫn giữa mơ ước và thực tại trong đời sống hôn nhân của bản thân cô. Ví dụ: mơ ước “Để anh đi gặt để nàng mang cơm” mâu thuẫn với thực tại “Chẳng nên gia thất thù về, /Ở làm chi nữa …”. Liệt kê thêm ít nhất hai biểu hiện tương tự về mâu thuẫn như vậy trong văn bản theo mẫu bảng dưới đây (làm vào vở).

Mơ ước

Thực tại

Để anh đi gặt, để nàng mang cơm

Chẳng nên gia thất thì về, / Ở làm chi nữa …

Trả lời:

Có thể liệt kê bổ sung một số lời thoại như trong bảng sau:

Mơ ước

Thực tại

Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm

“Chẳng nên gia thất …”, “ở làm chi nữa..”

Nhác trông lên núi Thiên Thai

Thấy hai con quạ ăn xoài trên cây

Đôi ta dắt díu lên đây

Áo trải làm chiếu, chăn quây làm mùng

Tôi thương nhân ngãi

Tôi nhớ nhân tình

Đêm năm canh trằn trọc hòa năm

Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu

Lúc thì tưởng đến nhân duyên

Lúc thì giả dại ra hình làm điên

Câu 3: Theo bạn:

a. Cách Xúy Vân chọn để thoát ra khỏi cuộc sống hiện tại có thỏa đáng không? Vì sao? Liệu còn có cách nào khác để nhân vật thoát ra khỏi cảnh ngộ của mình?

b. Nguyên nhân nào dẫn đến thảm kịch của cuộc đời Xúy Vân? Lỗi thuộc về môi trường xã hội – văn hóa xung quanh nhân vật, hay thuộc về chính bản thân nhân vật?

Trả lời:

a. Nêu ý kiến riêng và lí do của việc cá nhân bạn cho rằng giải pháp mà Xúy Vân chọn là thỏa đáng / không thỏa đáng.

b. Về nguyên nhân, cần xem xét từ hai phía: phía cá nhân Xúy Vân và phía môi trường xã hội – văn hóa bao quanh nhân vật. Việc xác định người có lỗi cũng vậy: lỗi trước tiên thuộc về cả khát vọng yêu đương hạnh phúc lẫn sự nhẹ dạ cả tin của Xúy Vân. Nhưng lỗi còn thuộc về gã Sở Khanh Trần Phương và một phần cũng thuộc về Kim Nham cùng gia cảnh nhà chàng.

>>>Xem thêm: Đọc hiểu Hương Sơn phong cảnh, Thơ duyên

Câu 4: Từ nhan đề, lời thoại trong văn bản và tóm tắt nội dung vở chèo, bạn hãy:

a. Xác định vị trí của văn bản (trích) trên đây trong toàn thể vở chèo Kim Nham.

b. Nêu một số bằng chứng cho thấy có sự phù hợp/ chưa phù hợp (nếu có) giữa nhan đề với nội dung văn bản.

Trả lời:

a. Vị trí của văn bản:

Hành động giả điên của Xúy Vân diễn ra khi Kim Nham, chồng nàng đến Tràng An dùi mài kinh sử để ứng thí, Xúy Vân một mình ở quê, gánh vác việc nhà chồng và cô độc trong cảnh chờ đợi. Nàng bị Trần Phương, một gã Sở Khanh phong tình tán tỉnh dụ dỗ. Nàng xiêu lòng, nghe lời hắn giả phát điện để Kim Nham viết giấy li hôn rồi cưới hắn.

b. Nhan đề Xúy Vân giả dại rất phù hợp với nội dung văn bản:

Màn kịch xoay quanh hành động giả dại của Xúy Vân. Các lời thoại (nói và hát) của Xúy Vân cũng cho thấy điều đó: Trong các lời thoại của mình, một mặt, Xúy Vân cố tình cho người ta thấy rõ vẻ mê sảng vô lí (nhảy cóc đột ngột từ nội dung này sang nội dung khác) theo kiểu lời nói của người điên). Mặt khác lại thể hiện đúng tâm sự nỗi niềm cảnh ngộ thực của cô: một người vợ khao khát tình yêu hạnh phúc trong đời sống hôn nhân buồn bã, cô đơn của chính mình.

Câu 5: Từ nhân vật Xúy Vân trong văn bản trên, hãy cho biết điểm khác biệt giữa cách miêu tả, thể hiện tính cách nhân vật trong văn bản chèo với nhân vật trong văn bản truyện? Qua đó, bạn rút ra được những lưu ý gì về cách đọc một văn bản chèo?

Kẻ mưu ma, người chước quỷ

(trích vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

Lớp 14

Đề hầu

(Số là) Thương mụ Hến, mặt mày rất đẹp

(Mà) Việc Huyện Trìa, giận chẳng hay nguôi

(Vả người là quan lớn, tôi là viên thuộc, dầu tôi có làm chi đi nữa)

 

Đã rằng trên có đã đành

Mà sứa nhảy qua đăng sao phải

Bây giờ nghĩ lại,

Dung thử chước này:

Nói chung bà huyện ra tay,

Thế mới bắt ông rối cẳng

Đề hầu: (Vào mách bà Huyện)

 

 

(Dạ bẩm bà)

(Vì hôm nọ)

Bà Huyện:

 

(Là họ)

(Nên ta)

 

 

 

 

Đề hầu:

 

 

 

 

 

Huyện Trìa:

 

 

 

Gia Đinh:

 

 

 

Huyện Trìa:

 

 

 

Hà Huyện (vào)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Huyện Trìa (vào)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hát Nam:

 

 

 

 

 

 

Bà Huyện (vào):

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Huyện Trìa (vào):

 

 

 

 

Bà Huyện:

 

 

 

 

 

(Nói thiệt)

 

 

 

Huyện Trìa (vào)

Ông đã đi đâu vắng

Bà ngồi chỉ một mình?

Bên Thanh hà (quan) đi viếng ân tình

Con mụ Hến tới đây hầu kiện.

Nghe thổi nghẹn họng,

Thấy nói căm gan

Dối đạc điền mưu khéo lật lường,

Ngồi tịnh thất dường như ủ dột

Mụ phen này quyết phá tan hoang

Ông đã đành bạc ngãi bạc tình,

Mụ cũng quyết lột trần lột trụi

(Hạ)

Mưu thâm diệu! Mưu thâm diệu

Ngã chí hoan! Ngã chí hoan

Vểnh râu Trìa trụi lụi chớ van

Cúi óc chỉ trơ trơ mà chịu

(Hạ)

Lớp 17

Giận mụ Huyện hay ghen quá bụng,

Làm cho ta thương nhớ không chừng.

Hễ đi thì mụ lại kéo lưng,

Gẫm ngồi vậy ta đà túng cẳng

Nha tiền tận mặt,

Trướng hạ bày lời:

Thím Hến tôi cho tới mời ngài,

Đại quan tới hôm nay có việc.

Vốn đây đã biết,

Lựa phải nhiều lời,

Để ta sẽ tới nơi,

Về phân qua cho rõ.

Thính thuyết tâm trung tĩnh nộ!

Văn ngôn nhãn thượng sanh ba!

 

Say theo người mình ngọc vóc ngà

Hầu nó mụ thân tàn ma dại,

Lời thề thốt miệng ông bải bải,

Mồm đãi đưa dối mụ liền liền.

Ông bày láo địa láo thiên

Mụ quyết lột trần lột lỗ!

Đặng buồng này khuây buồng nọ

Tham chỗ có bỏ chỗ không

Làm cho ông hết vác mặt đánh bồng

Tới nhà nó trương mồm (mà) nói khách.

(Hạ)

 

Giận mụ nên quá ách,

Hành mỗ đã hầu điên,

Miệng nói rồi khăn áo lột liền,

Chân đi lại y hài chẳng có.

Lén đi chắc mụ ra kéo cổ,

Ở lại thì mỗ quá buồn lòng.

Mưu mụ đà cố lũy thâu công

Kế ta dụng canh y cầu dáng.

Nghĩ vợ con quá chán

Nỗi duyên nợ băng xăng.

Vào buồng kia ăn cắp cái khăn,

Ra ngõ nọ sửa sang nhan sắc.

Thói mụ thiệt hay ghen lặt vặt

Nghĩ mình đà lắm việc lăng nhăng.

Chỉ Thanh Hà nhẹ gót phăng phăng

Mang nón ngựa chúc ba phơi phới

 

Nón ngựa chúc ba phơi phới

Muốn ăn khoai nào ngại vác mai.

Bôn ba cây cối dễ nài,

Miễn là duyên hiệp trối ai chê cười.

(Hạ)

 

Lớp 18

Ông huyện ơi! Ông huyện ơi!

Chờ tôi với! Chờ tôi với!

Trở lại thời tắt đuốc,

Bằng đi ắt mang tai.

Trời mịt mù chẳng thấy bàn tay,

Đường tăm tối ỷ khôn dời bước.

Dao phay nguyền xé ruột!

Kéo sắ quyết xắp môi!

(Ới ông ơi!) Chờ tôi với! CHờ tôi với!

(Hạ)

 

Quả tình hay theo dõi,

Kìa yêu động kêu vang.

Sáng nẻo đường ắt mụ đuổi theo

Tắt quách đuốc thời mày trở lại.

(Tắt đuốc núp bên đường, miệng kêu tiếng cú)

Bất ngãi! Chơn bất ngãi!

Mưu thâm! Quả mưu thâm!

Tắt đước đi đường sá chẳng thấy tăm,

Trời tối quá bụi bờ không lướt tới.

Tại ta hay ghen dại,

Nên chồng phải làm ma

Ông dầu ló cổ về nhà

Mụ quyết ra tay xé lỗ!

(Hạ)

 

Gan mụ nên quát ngố

Mưu ta thiệt nên khôn

Tại vì có phép thiên hôn

Không mắc vào tay địa sát

Mê mụ Hến phải toan mưu chước

Việc mụ Trìa nói lại làm chi?

Đuốc dong lên phơi phới ra đi,

Chỉ nhà nọ lần lần tới đó

(Hạ)

(In trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến – Khuyết daanh, tr.538 – 539; 541 – 544)

Trả lời:

Một số điểm khác biệt trong cách xây dựng nhân vật và những lưu ý trong cách đọc văn bản chèo so với văn bản truyện:

Phương diện

Văn bản truyện

Văn bản chèo

Xây dựng nhân vật

Nhân vật được xây dựng qua:

- Góc nhìn, quan điểm của người kể chuyện và các nhân vật khác (lời của người kể chuyện và lời của nhân vật).

- Lời văn kể chuyện

- …

Nhân vật được xây dựng qua:

- Góc nhìn, quan điểm của chính nhân vật (độc thoại, bàng thoại) và các nhân vật khác (đối thoại).

- Lời của nhân vật (cùng các chỉ dẫn sân khấu)

- …

Cách đọc văn bản

Xác định người kể chuyện, điểm nhìn, đặc điểm tính cách của nhân vật, cốt truyện lời văn kể chuyện.

Xác định hành động của nhân vật, mâu thuẫn, quá trình nảy sinh, phát triển, giải quyết xung đột kịch trong văn bản chèo qua lời thoại (nói, hát) của nhân vật.

Câu 6: Lời thoại cũng thể hiện những công việc thường ngày của Xúy Vân. Từ những công việc Xúy Vân thường làm và những suy nghĩ, tình cảm của nhân vật khi thực hiện những công việc đó, bạn nhận thấy điều gì về tính cách nhân vật?

Trả lời:

Bạn nên thực hiện yêu cầu của bài tập này theo hai bước:

Bước 1: Liệt kê các lời thoại thể hiện những công việc thường ngày cùng những suy nghĩ, tình cảm của Xúy Vân

Bước 2: Đưa ra nhận định về tính cách của nhân vật Xúy Vân.

Với việc liệt kê, có thể sử dụng mẫu bảng sau:

Các lời thoại

Công việc

Suy nghĩ, tình cảm

Chờ cho cây lúa chín vàng,

Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm

Trồng trọt, gặt hái

 

Ngồi rồi xem nhện xe tơ

Xem dăm sợi chỉ đợi chờ tình nhân

May vá

 

Lấy Kim Nham nhà khó gian truân,

Chồng học vắng chầy ngày mong mỏi

 

Xúy Vân tự thấy buồn thương cho tình cảnh của mình: đã lấy con nhà nghèo, lại phải chịu cảnh vò võ mong chồng trở về ..

Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương

Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại.

 

Xúy Vân tự thấy mình lỗi đạo với chồng nhung không thể cưỡng lại sự si tình đối với Trần Phương.

Về tính cách nhân vật, có thể rút ra từ kết quả khảo sát liệt kê:

Tính cách của Xúy Vân:

- Người phụ nữ bất hạnh, cô đơn; biết tự thương xót cho số phận của mình;

- Người phụ nữ không cam lòng chịu sống cảnh ngộ đơn côi trong cuộc sống hôn nhân hiện tại của mình, luôn mơ tưởng kiếm tìm một mái ấm, một tình yêu, hạnh phúc mới;

- Tự biết mình say đắm kẻ khác, lỗi đạo với chồng, nhưng vẫn liều lĩnh dấn bước vào con đường đến “điên cuồng rồ dại”.

- …

icon-date
Xuất bản : 01/10/2022 - Cập nhật : 19/11/2022