logo

Cảm nhận về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính?

Tuyển chọn những đoạn văn, bài văn hay Cảm nhận về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kínhVới những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn Ngữ văn 9. Cùng tham khảo nhé! 


Đoạn văn cảm nhận khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Khổ thơ nêu bật ý chí quyết tâm giải phóng miền nam của người chiến sĩ lái xe. Hai câu đầu tác giả sử dụng biện pháp liệt kê , điệp ngữ nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của chiếc xe ''không kính'', ''không đèn'', ''không mui'', ''thùng xe xước'' qua đó cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường. Những chiếc xe trần trụi ấy vẫn băng ra chiến trường dù mọi thứ trong xe không còn nguyên vẹn chỉ cần vẹn nguyên 1 trái tim người lính - trái tim vì miền nam - thì xe vẫn chạy. Đó không chỉ là sự ngoan cường,dũng cảm, vượt lên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước.Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng chiếc xe nhưng không đè bẹp được tinh thần,ý chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe, xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà con có cả động cơ tinh thần''vì miền nam phía trước''. Nghệ thuật đối lập những cái ''không có'' ở bên ngoài là mốt cái ''có” ở bên trong - đó là trái tim người lính. Trái tim thay thế cho mọi thiếu thốn, hợp nhất với người chiến sĩ trở thành một cơ thể sống không gì ngăn cản tàn phá được trái tim chạy bằng xương máu của người chiến sĩ. Trái tim ấy tạo ra niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Trái tim yêu thương, trái tim cam trường của người chiến sĩ lái xe vừa là hình ảnh hoán dụ vừa là hình ảnh ẩn dụ gợi ra bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp thiêng liêng tất cả vì miền nam thân yêu. Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên được một thế hệ thanh niên thời kháng chiến chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.


Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 1

Trong chặng đường văn học giai đoạn 1945 – 1975, cùng với rất nhiều nhà thơ trẻ khác Phạm Tiến Duật cũng mạnh dạn góp ngòi bút của mình vào vườn thơ ca kháng chiến. Với bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ông đã phần nào khẳng định tài năng, trách nhiệm của mình trước vận mệnh của dân tộc. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh của những chiếc xe không kính cùng phong thái ung dung ngang tàng của những người lính lái xe. Và khép lại bài thơ là ý chí bền bỉ chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước: 

"Không có kính rồi xe không có đèn 

 …………… 

Chỉ cần trong xe có một trái tim" 

Lời thơ tựa như lời kể chuyện, kể thêm về cái khốn khó của một thời chiến đấu không thể nào quên. Với ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, những mốc chiếc xe không chỉ không có kính mà còn hơn thế là: 

"Không có kính rồi xe không có đèn 

Không có mui xe thùng xe có xước"

Cùng với điệp ngữ "không có" cùng một loạt hình ảnh liệt kê "thùng xe, mui xe, đèn xe" giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn cái ác liệt nơi chiến trường. Giờ đây, xe không chỉ không có kính mà xe còn không có đèn rồi lại không có mui xe, thùng xe thì bị xước trở nên biến dạng, xấu xí. Chiếc xe bỗng trở nên trần trụi và dị dạng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trái ngược với hình dạng không ưa nhìn của những chiếc xe là tâm hồn phơi phới dậy tương lai của những người lính lái xe: "Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước".

Dù cho ngoại cảnh có khốc liệt, vật chất có thiếu thốn như thế nào đi chăng nữa thì bánh xe vẫn lăn thẳng về miền Nam thân yêu. Phải chăng chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc đã thôi thúc, động viên những người lính trẻ cầm chắc tay lái vượt qua rào cản khó khăn và với họ thì: "Chỉ cần trong xe có một trái tim" Dẫu có bao nhiêu gian khó thì cũng chỉ cần có "trái tim" là đủ. "Trái tim" nồng nàn yêu nước hay tinh thần lạc quan của người lính thì cũng vậy. Nó đã vượt lên cái khốn khó "không đèn, không kính, không mui xe, thùng xe xước" để hóa thành tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hình ảnh khép lại bài thơ lại có sức lan tỏa, làm sáng dậy một tình yêu đất nước sâu nặng. Mọi thứ có thể thiếu nhưng thứ duy nhất không thể mất đi chính là niềm tin vững vàng của người cầm lái. Chỉ có con người và chỉ có tình yêu mới có thể giúp cuộc kháng chiến của dân tộc thành công. Đến đây, câu thơ như đang biểu dương, ngợi ca những người lính lái xe, những anh bộ đội cụ Hồ. 

Nếu như trong thơ của Chính Hữu, người lính trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận, họ bước vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn:

 "Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"

"Áo anh rách vai

 Quần tôi có vài mảnh vá"

thì khi đến với "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ta lại bắt gặp một thế hệ trẻ bước vào kháng chiến với niềm vui và tinh thần lạc quan, họ được giác ngộ về lí tưởng Cách mạng, họ là những người lính có học thức cao hơn, ý thức hơn về trách nhiệm của mình với vận mệnh của dân tộc.

Cảm nhận về khổ thơ cuối bài thơ về tiểu đội xe không kính?

Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 2

Được mệnh danh là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca", Phạm Tiến Duật đã mang cả hào khí thời đại cùng sức trẻ phơi phới của các chiến sĩ quyết chiến ở dãy Trường Sơn vào thơ ca. Tác phẩm “Bài thơ tiểu đội xe không kính” cùng hình ảnh những người lính tự do tự tai, coi thường gian khổ gắn liền với một thời lịch sử oai hùng của dân tộc. Khổ thơ cuối là nơi cảm xúc của tác giả thăng hoa và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả về sự ác liệt của chiến tranh cùng những phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe “không kính”.

Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã sử dụng một hình tượng vô cùng độc đáo và mới lạ gợi nhiều liên tưởng thú vị: Những chiếc xe không có kính- đây là phương tiện di chuyển của những người lính khi thực hiện nhiệm vụ chi viện cho miền Nam thân yêu. Hình ảnh những chiếc xe tái hiện với những mất mát, những phá hủy đầy bạo tàn mà chiến tranh mang lại cho dân tộc ta.

Ở khổ thơ cuối cùng, hình ảnh chiếc xe không có kính lại hiện lên và được khắc họa sâu sắc trong lòng bạn đọc.

"Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe cỏ xước."

Điệp từ “Không” cùng phép liệt kê được sử dụng rất đắt! Một chiếc xe để di chuyển và chở bao nhiêu vật dụng quan trọng lại gần như tất cả những thiết bị cơ bản đã bị chiến trường khốc liệt làm hư hại hết. Dẫu lúc đầu chỉ là một binh đoàn “xe không có kính” nhưng đến câu thơ này thật ra đoàn xe chẳng có gì cả. Không kính, cũng chẳng có mui xe, đèn xe. Chiếc xe tưởng chừng chẳng thể sử dụng, méo mó chẳng còn nguyên vẹn ấy lại được lèo lái qua bao con đường hiểm nguy, chở bao hy vọng của nhân dân, của tổ quốc.

Những người lính bên trong xe lại dường như chẳng hề bị tác động bởi những ngoại lực ấy. Đối nghịch với những bom rơi đạn lạc, với những thiếu thốn, khó khăn, tâm thế của những người lính lại càng sáng ngời. Họ thể hiện một tinh thần bất khuất quật cường, một ý chí mạnh mẽ và một trái tim ngập tràn niềm tin vào một tương lai tương đẹp.

Phải hội tụ tất cả những phẩm chất cao đẹp đó, những người lính mới có thể lái những chiếc xe cũ kỹ, tồn tàn, hư hỏng mọi thứ như vậy băng qua núi rừng Trường Sơn. Chính tinh thần phơi phới đó đã giúp họ giữ vững tay lai, coi thường hiểm nguy để lái từng vòng bánh xe vững chắc.

Nhịp thơ gấp, ngắn tựa như những chặng đường đầy hiểm nguy, gian khó mà họ phải đối mặt. Ấy thế chẳng hề nao núng, chiếc xe vẫn bon bon chạy:

"Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."

Hai câu thơ trên đã khắc họa sống động hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên những con đường Trường Sơn ác liệt . Âm điệu hoàn toàn trái ngược với hai câu trên, giai điệu vang lên trôi chảy, êm ái. Nghệ thuật tương phản kết hợp với hình ảnh hoán dụ đặc sắc. Trên cái nền bên ngoài chiếc xe là sự hiểm nguy, là cái chết đang rình rập, là sự thiếu thốn, khốn cùng thì bên trong chiếc xe lại là hình ảnh “trái tim”. Hình ảnh hoán dụ, trái tim ý chỉ cho lòng yêu nước sâu sắc cùng tinh thần tự tôn dân tộc nồng cháy trong tim mỗi người lính. Trên những chiếc xe không kính chở đầy những lương thực, thuốc men, đạn dược cần thiết cho cuộc chiến của dân tộc. Vì vậy chiếc xe chạy bon bon đêm ngày trong bom rơi đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi phía trước.

Kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đặc biệt, góp phần lý giải cho sức mạnh thần kỳ giúp những người lính kiên định vượt qua gian khó. Đồng thời khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe lại đến từ “trái tim” chứa đầy phẩm chất anh hùng gan góc, kiên cường và giàu bản lĩnh.

Ẩn sau trái tim mạnh mẽ cầm lái, câu thơ còn muốn hướng đến một chân lý thời đại: sức mạnh quyết định đến một đất nước có tự do hòa bình, có chiến thắng bao xiềng xích không phải là vũ khí mà là sự đoàn kết của con người. Những con người mang trong mình những trái tim nồng nàn yêu thương cùng ý chí bất khuất, kiên cường dũng cảm và niềm tin đầy lạc quan vào tương lai. Có thể nói đây chính là câu thơ hay nhất của cả tác phẩm. Nó chính là nhãn tự của bài thơ, làm bật sáng toàn bộ chủ đề và giúp khắc họa rõ nét vẻ đẹp của hình tượng nhân vật người lính lái xe không kính trong bài thơ.

Chính trái tim nhỏ bé đó luôn hừng hực cháy một ý chí chiến đấu quên mình để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính trái tim ấy đã là động lực, cho các anh vượt qua mọi hiểm nguy, vất vả. Mặc kệ tất cả để xe bon bon chạy về phía trước.

Một trái tim yêu nước quả cảm đã đủ mạnh mẽ, thế nhưng đây là lại cả một “tiểu đội” trái tim như vậy, rồi còn bao binh đoàn chưa được nhắc tên là bấy nhiêu trái tim mạnh mẽ. Chính “trái tim” một lòng hướng về tổ quốc ấy đã mang lại thành công vang dội cho kháng chiến.

Hình ảnh người lính trong thơ Phạm Tiến Duật hiên ngang, lẫm liệt cùng những lý tưởng cao đẹp đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bài thơ không chỉ phản ánh sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh Việt Nam mà còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của những người chiến sĩ lái xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại chi viện cho miền Nam thân yêu. Dù thời gian làm vạn vật đổi thay, nhưng hình ảnh những chiến sĩ Trường Sơn vẫn sẽ sống mãi với bao cảm xúc tự hào về một thời oanh liệt đã qua của dân tộc.


Bài văn cảm nhận về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 3

Tình yêu nước thiết tha, tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của người lính lái xe thể hiện rõ ràng nhất qua khổ cuối của bài thơ. Bằng ngôn ngữ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã tạc nên bức thành đồng của dân tộc, khắc vào thế kỉ hình tượng người lính anh dũng, kiên cường, không bao giờ bị khuất phục bởi một lí do duy nhất: tình yêu miền Nam ruột thịt và khát vọng thống nhất đất nước là nguồn sức mạnh bất diệt, thúc giục các anh bất chấp hiểm nguy, đưa xe ra trận.

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất vô tư, sôi nổi, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường. Khí phách ấy thể hiện qua cách nói chắc nịch: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Thái độ “chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc”, “chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” là sự thách thức, coi thường khó khăn gian khổ. Những chiếc xe từ trong bom rơi, bị bom giật, bom rung, nhưng người chiến sĩ vẫn ung dung. Các anh nhìn thẳng phía trước, vui vẻ bắt tay nhau.

Xe hư hỏng không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước, nhưng “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Tất cả vì tiền tuyến, mặt trận. Đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt trận dù đạn bom man rợ đang thét gào. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ, ác liệt (qua hình ảnh những chiếc xe ngày càng méo mó, biến dạng). Bất chấp gian khổ, hy sinh, những chiếc xe vẫn thẳng đường ra tiền tuyến. Những người lính lái xe quả cảm vững tay lái vì họ có một trái tim tràn đầy nhiệt tình cách mạng, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá.

Hai câu cuối của “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình tượng đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn.

“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá huỷ nặng nề, mất đi cả những hộ số an toàn tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom roi đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do của nửa nước vẫn phải tiếp tục.

Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người lính lái xe, chỉ có sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Hình ảnh này kết hợp cùng kết câu câu “vẫn – chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi mãi yêu quý và cảm phục.

Yêu nước, quyết đánh giặc cứu nước chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe tiến về miền Nam. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.

---/---

Trên đây là các bài văn mẫu Cảm nhận về khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!

icon-date
Xuất bản : 08/04/2022 - Cập nhật : 11/06/2022